Mười một Tri kiến giải thoát
Tu theo Phật giáo là bắt đầu tu tập pháp ly dục ly bất thiện pháp mà ly dục ly bất thiện pháp là phải dùng tri kiến, nhưng tri kiến phàm phu không thể giải thoát được, vì thế phải sử dụng tri kiến giải thoát, nhưng tri kiến giải thoát thì phải học tập. Trong đạo Phật có mười một tri kiến giải thoát. Bởi vậy người nào muốn tu theo Phật giáo để được giải thoát đều phải học những tri kiến này. Vậy mười một tri kiến giải thoát này như thế nào?
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật giải thích mười một tri kiến giải thoát để mọi người cùng hiểu biết rõ ràng hơn, để áp dụng vào con đường tu tập của mình đến nơi, đến chốn, để kết quả đạt được tâm BẤT ĐỘNG hoàn toàn.
Tri kiến giải thoát thứ I (Sắc thân Tứ đại duyên hợp)
Đây là tri kiến giải thoát thứ nhất chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ nhất: Chư Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không biết rõ các sắc? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đối với sắc pháp không như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không biết rõ các sắc”.
Câu này đức Phật dạy rất rõ, nói đến SẮC là phải hiểu: SẮC do BỐN ĐẠI hợp thành, không có SẮC nào mà ngoài BỐN ĐẠI mà có được. Vậy SẮC do BỐN ĐẠI hợp thành là gì?
Bốn đại là ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA. Một vị Tỳ kheo tu theo Phật giáo mà không hiểu SẮC là do ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA hợp thành thì không phải là vị Tỳ kheo đệ tử Phật.
Một người hiểu rõ SẮC là do BỐN ĐẠI hợp thành mà SẮC hợp thành là pháp VÔ THƯỜNG mà vô thường là khổ. Do hiểu biết như vậy nên người ấy không dính mắc và không chấp đắm vào SẮC tức là không chắp đắm vào thân TỨ ĐẠI. Không chắp đắm vào thân TỨ ĐẠI là người có tri kiến giải thoát thứ nhất.
Tri kiến giải thoát thứ II (Nghiệp tướng)
Đây là tri kiến giải thoát thứ hai, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ hai: Chư Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không khéo phân biệt các tướng? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng của người đó, kẻ trí và nghiệp tướng của người đó. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không khéo phân biệt các tướng”.
Tri kiến thứ nhất nói về SẮC còn ở đây đức Phật dạy tri kiến thứ hai nói về NGHIỆP TƯỚNG. Vậy NGHIỆP TƯỚNG là cái gì?
Như quý vị đều biết con người ai cũng có thân, nhưng thân do bốn đại: ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA hợp lại mà thành gọi là SẮC THÂN. Nhưng tại sao mọi người lại có sắc thân khác nhau; người có sắc thân to lớn; người có sắc thân nhỏ bé; người có sắc thân đẹp đẽ, người có sắc thân xấu xí; người có sắc thân trắng trẻo; người có sắc thân đen thui, đen thít v.v... Tất cả những hình tướng sai khác của thân người này không giống vói thân người kia đều được gọi là NGHIỆP TƯỚNG.
Cho nên trên sắc thân của mọi người đều có TƯỚNG RIÊNG BIỆT. Vậy tướng riêng biệt của mọi người này từ đâu mà có?
Do từ nghiệp mà có các TƯỚNG RIÊNG này. Vậy NGHIỆP là cái gì?
NGHIỆP là những hành động của Ý THỨC, của LỜI NÓI, của TAY CHÂN. Ba chỗ này thường là nơi xuất phát NGHIỆP. cho nên NGHIỆP gồm có NGHIỆP THIỆN, NGHIỆP ÁC.
NGHIỆP THIỆN là những hành thân, miệng, ý làm việc lành, còn NGHIỆP ÁC là do hành động thân, miệng, ý làm việc ác. Làm việc lành là không làm khổ mình khổ người, còn làm việc ác là làm khổ mình khổ người. Cho nên trong đạo Phật xác định rất rõ thiện ác phân minh không thể lầm lộn được.
Các tướng riêng biệt của mỗi người khác nhau là do làm thiện nhiều hay làm thiện ít hoặc làm ác nhiều hay làm ác ít. Do sống ác hay thiện mà tướng có đẹp xấu, có cao thấp, có tật nguyền hay không tật nguyền. Có kẻ ngu lại có người thông minh đó dều do nghiệp mà ra cả.
Tướng theo nghiệp mà có nên nghiệp đâu thì xác định tướng đấy.
Nhờ có tri kiến về TƯỚNG nên chúng ta sống trong chánh nghiệp thường làm những điều thiện và tăng trưởng những điều thiện.
Đây là tri kiến về NGHIỆP TƯỚNG, nhờ hiểu biết về NGHIỆP TƯỚNG nên thân tâm không làm điều ác. Đó là tri kiến giải thoát thứ hai trong đạo Phật.
Tri kiến giải thoát thứ III (Dục tầm, Sân tầm, Hại tầm)
Đây là tri kiến giải thoát thứ ba. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ ba: Chư Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thọ dụng dục tầm khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại, thọ dụng sân tầm khởi lên... (như trên)... thọ dụng hại tầm khởi lân... (như trên)... thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét”.
Nếu một người có tri kiến giải thoát thứ ba này thì rất thông suốt những tâm niệm ham muốn, những tâm niệm sân hận, những tâm niệm làm khổ mình làm khổ người. Khi những tâm niệm đó khởi lên nhất định họ không bao giờ nuôi dưỡng lòng ham muốn, lòng sân hận, lòng làm khổ mình khổ người. Họ sẽ chấm dứt, diệt ngay những tâm niệm ấy Những tâm niệm ấy là những tâm niệm đau khổ. Bởi tri kiến giải thoát thứ ba là tri kiến hiểu về lòng ham muốn, về lòng sân giận, về những ý suy nghĩ làm khổ mình, khổ người. Khi tri kiến hiểu rõ các ác pháp đó thì khi tâm niệm khởi lên những ác pháp đó nó liền diệt và loại trừ ra khỏi tâm.
Tóm lại chúng ta đã học được ba tri kiến giải thoát:
1- Tri kiến về SẮC THÂN do BỐN ĐẠI hợp thành.
2- Tri kiến về NGHIỆP TƯỚNG.
3- Tri kiến về DỤC TẦM, SÂN TẦM, HẠI TẦM.
Tri kiến giải thoát thứ IV (Phòng hộ sáu căn)
Kế tiếp chúng ta học tri kiến thứ tư. Muốn hiểu rõ tri kiến giải thoát thứ tư thì chúng ta hãy nghe lời dạy của đức Phật: “Tri kiến giải thoát thứ tư: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không băng bó vết thương? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo, khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì làm cho con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; Tỳ-kheo không tự chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì con mắt, không thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; Tỳ-kheo không chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không băng bó vết thương”.
Tri kiến giải thoát thứ tư là tri kiến phòng hộ sáu căn tức là sự hiểu biết giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không cho dính mắc chấp đắm sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Muốn giữ gìn được như vậy thì phải sống độc cư trọn vẹn. ĐỘC CƯ là một phương pháp phòng hộ sáu căn đệ nhất. Người biết sống ĐỘC CƯ là người có tri kiến giải thoát thứ tư.
Tri kiến giải thoát thứ V (Tuỳ duyên chia sẻ pháp)
Tri kiến giải thoát thứ năm, muốn hiểu rõ nó chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ năm: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không xông khói? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không xông khói”.
Khi chúng ta đã thông suốt bốn tri kiến giải thoát trên đây là chúng ta có một đời sống bình an không có một ác pháp nào tác động làm tâm chúng ta buồn khổ lo rầu ưu bi phiền não. Khi tâm chúng ta được giải thoát như vậy chúng ta nên đem dạy lại cho người khác hiểu biết để mọi người được giải thoát như chúng ta.
Đến tri kiến giải thoát thứ năm Phật dạy: Mình nên đem những điều hiểu biết của mình đã được giải thoát dạy lại cho người khác để họ cùng giải thoát như mình.
Tri kiến giải thoát thứ năm là thực hiện lòng tốt của mình với mọi người, đem sự lợi ích của mình cho mọi người để cùng nhau lợi ích.
Tri kiến giải thoát thứ VI (Dẹp bỏ tâm nghi ngờ)
Đến tri kiến giải thoát thứ sáu, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ sáu: Và này, các Tỳ-kheo, như thế nào là Tỳ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) nhưng không hỏi, không trả lời các vị ấy: “Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? ý nghĩa này là gì?” Những bậc Tôn giả ấy không làm cho hiển lộ những điều chưa hiển lộ, không làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị ấy không đoạn trừ nghi Tỳ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua”.
Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến giải trừ mọi tâm nghi ngờ nó giúp cho mọi người không còn nghi ngờ Chánh pháp của Phật.
Đạo Phật dạy tu tập sẽ làm chủ bốn sự đau khổ: SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, nhưng có người không tin cho rằng lời dạy này là lường gạt người chớ làm gì mà làm chủ được sự sống chết.
Khi gặp trường hợp như vậy chúng ta giải thích cho họ hiểu biết cách thức làm chủ như thế nào.
Làm chủ SINH tức là làm chủ cuộc sống, làm chủ cuộc cuộc sống là làm chủ tâm mình. Ví dụ có người chửi mắng mình, mình không chửi mắng lại mà tâm vẫn an vui không giận hờn oán ghét người đó. Muốn được tâm như vậy thì chúng ta phải hiểu: Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta đều do nhân quả tác thành, vì thế những ác pháp đến với chúng ta là do trước kia chúng ta đã mang nhân quả ác đến với những người khác, bây giờ phải trả quả do nhân đời trước đã làm. Hiểu nhân quả được như vậy là tâm chúng an vui mà không tức giận phiền não. Hiểu được như vậy tức là tri kiến giải thoát chúng ta đã có.
Trên đời người ta hay tự làm khổ mình bằng cách NGHI NGỜ, người ta nói xấu mình, người ta hại mình v.v... Do sự nghi ngờ này mà làm chúng ta rất đau khổ tâm không được an vui.
NGHI NGỜ là một ác pháp chúng ta hãy cố gắng khắc phục và diệt trừ cho hết tâm NGHI NGỜ. Hết tâm NGHI NGỜ là được giải thoát.
Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến dẹp trừ tâm NGHI NGỜ, phá vỡ tâm NGHI NGỜ. Nếu chúng ta có tri kiến giải thoát thứ sáu là chúng ta không còn tâm NGHI NGỜ, Vì vậy chúng ta luôn luôn hãy sống với tri kiến giải thoát thứ sáu để cứu mình ra khỏi tâm NGHI NGỜ.
Tri kiến giải thoát thứ VII (Thông suốt Pháp và Luật)
Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến thông suốt pháp và luật của đức Phật. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ bảy: Và chư Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo, trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, không chứng đạt nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, không chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không biết chỗ nước uống”.
Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến pháp tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết và giới luật đức hạnh của Phật. Đó là tri kiến rất cần thiết cho một người tu theo Phật giáo. Vì không hiểu giới luật và pháp tu tập làm chủ sinh già, bệnh, chết của Phật giáo. Cho nên tri kiến giải thoát thứ bảy này đã xác định được ai là đệ tử Phật và ai là đệ tử của ngoại đạo.
Khi chúng ta có tri kiến giải thoát thứ bảy thì ngoại đạo không lường gạt chúng ta được. Bởi vậy kinh sách Đại Thừa và Thiền tông chỉ gạt những người không có tri kiến thứ bảy. Khi chúng ta đã học đến tri kiến thứ bảy đã làm chúng ta sáng suốt về Phật giáo hơn nữa.
Tri kiến giải thoát thứ VIII (Thông suốt Bát Chánh Đạo)
Tri kiến giải thoát thứ tám là một tri kiến giúp chúng ta hiểu rõ đường lối tu tập của Phật giáo. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ tám: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không biết về con đường. Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không biết đến con đường”.
Đến với đạo Phật là đến với con đường BÁT CHÁNH ĐẠO chỉ có đạo Phật mới có con đường này. Cho nên tri kiến giải thoát thứ tám xác định cho chúng ta biết. Người đến với đạo Phật mà không hiểu BÁT CHÁNH ĐẠO là không có tri kiến giải thoát thứ tám. Khi có tri kiến giải thoát thứ tám thì tà giáo ngoại đạo không thể lừa đảo được. Tà giáo ngoại đạo không thể có con đường BÁT CHÁNH ĐẠO. Khi có tri kiến giải thoát thứ tám thì Đại Thừa và Thiền Tông không thể lừa gạt chúng ta được mặc dù chúng mạo nhận BÁT CHÁNH ĐẠO nhưng chúng chẳng rõ phương pháp và cách tu tập.
Ví dụ:
1- Lớp CHÁNH KIẾN là phải học tri kiến giải thoát thứ nhất thấy SẮC là bốn duyên hòa hợp mà thành.
2- CHÁNH TƯ DUY là sự suy tư không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
3- CHÁNH NGỮ là lời nói phải ôn tồn nhã nhặn nhẹ nhàng êm ái khiến người nghe được an vui, không buồn rầu tức giận.
4- CHÁNH NGHIỆP là tất cả hành động thân miệng ý đều phải thực hiện những điều lành và luôn luôn ngăn những hành động làm những điều ác.
5- CHÁNH MẠNG là nuôi mạng sống bằng những thực phẩm không có giết hại chúng sinh, không có sự đau khổ, không có kêu là thảm thiết.
Trong năm lớp này toàn là học tập GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH mà đức Phật đã dạy trong kinh Phạm Võng.
6- Lớp CHÁNH TINH TẤN thì chúng ta tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN hằng ngày ngăn ác và diệt ác pháp.
7- Lớp CHÁNH NIỆM thì chúng ta tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ.
8- Lớp CHÁNH ĐỊNH thì chúng ta nhập các loại định như: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN và thực hiện TAM MINH đến đây là con đường tu tập của Phật giáo là xong.
Tri kiến giải thoát thứ tám là tri kiến hiểu biết về BÁT CHÁNH ĐẠO.
Tri kiến giải thoát thứ chín là tri kiến TỨ NIỆM XỨ, nếu cuộc đời tu hành của chúng ta mà không có tri kiến này thì không bao giờ chúng ta tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết được. Bởi vậy tri kiến TỨ NIỆM XỨ rất quan trọng cho cuộc đời tu hành của chúng ta.
Tri kiến giải thoát thứ IX (Tứ Niệm Xứ)
Ngoài pháp môn TỨ NIỆM XỨ đạo Phật không còn có một pháp môn nào tu chứng đạo cả. Cho nên ngoại đạo không bao giờ tu chứng đạo vì không có pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Chúng hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ chín: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ? Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ”.
Như vậy pháp môn TỨ NIỆM XỨ rất quan trọng cho con đường tu tập của chúng ta đi đến giải thoát thì tri kiến giải thoát thứ chín là điều chúng ta cần phải học tập cho nhuần nhuyển.
Khi tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì phải tu tập cho đúng cách của pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Trong kinh TỨ NIỆM XỨ Phật dạy TRÊN THÂN QUÁN THÂN nhưng nếu ai chưa tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà vội tu tập TỨ NIỆM XỨ thì ngay đó bị ức chế tâm mà trở thành bị tẩu hỏa nhập ma. Cho nên tu tập TỨ NIỆM XỨ là tâm phải hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng, nếu còn hôn trầm loạn tưởng thì không nên tu tập TỨ NIỆM XỨ.
Cho nên trong tri kiến giải thoát nó đứng vào hành thứ chín như vậy người sơ cơ mới tu tập thì không nên tu tập mà chỉ biết trong học tập.
Tri kiến giải thoát thứ X (Thiểu dục tri túc)
Tri kiến giải thoát thứ mười là tri kiến biết đủ tức là tri kiến thiểu dục tri túc. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ mười: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt? Ở đây, này các Tỳ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, Tỳ-kheo không biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt”.
Người tu sĩ Phật giáo mà không biết đủ, không thiểu dục tri túc là không phải là người tu sĩ Phật giáo mà là người tu sĩ của ngoại đạo. Người tu sĩ ngoại đạo tham danh tham lợi ham mê của cúng dường của đàn na thí chủ.
Tri kiến giải thoát thứ mười xác định cho chúng ta biết làm tu sĩ Phật giáo thì phải buông xả tất cả vật chất xuống hết, đời sống chỉ cón ba y một bát, lúc nào cũng xin ăn ai cho gì ăn nấy không nên khen chê. Ăn mặc bằng vải thô xấu bằng, vá víu mới đúng hạnh người tu sĩ ra khỏi cuộc đời.
Được nghĩ và sống như vậy là người đã thực hiện tri kiến giải thoát thứ mười, tri kiến buông xả, tri kiến thiểu dục tri túc mà người tu sĩ cần phải thực hiện không thể diện cớ này hay cớ khác.
Tri kiến giải thoát thứ mười một là tri kiến tôn kính tôn trọng những bậc tu hành chân chánh giới luật tinh nghiêm. Không được khinh khi những bậc trưởng lão trong hàng tu sĩ mặc dù họ không lãnh chức vụ gì trong giáo hội, nhưng họ là những người đã tu tập lâu năm chúng ta là những người hậu học nên phải cung kính tôn trọng họ. Khi gặp họ phải biết nhường chỗ ngồi chỗ tốt cho họ hoặc giúp đỡ họ khi họ đi đứng không vững vàng.
Tri kiến giải thoát thứ XI (Kính trọng các bậc Trưởng lão)
Hành động biết kính trên nhường dưới là tri kiến giải thoát thứ mười một mà một người tu sĩ như chúng ta rất cần học hỏi để trở thành một thói quen cung kính và tôn trọng mọi người. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật day: “Tri kiến giải thoát thứ mười một: Và này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có thân nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có khẩu nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo đối với những Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt. Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp này, thì không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp, Luật này”.
Mười một tri kiến giải thoát này nếu ai biết áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình cũng đã thấy tâm BẤT ĐỘNG chớ đâu cần phải tu tập nhiều pháp đâu. Mười một tri kiến này tu tập cũng đủ cho chúng ta ly dục ly bất thiện pháp. Bởi vậy đạo Phật đâu có ngồi thiền nhiều để ức chế ý thức mà chỉ có xả tâm thành tựu đạo giải thoát. Thiền của Phật giáo là TÂM BẤT ĐỘNG trong việc xả tâm ly dục ly bất thiện pháp chứ không phải tâm BẤT ĐỘNg bằng cách ức chế ý thức không cho niệm khởi như kiểu Thiền Tông Trung Quốc.
Đọc qua bài kinh này chúng ta phải nhớ lấy mười một tri kiến này để chúng ta tu tập không sai đường lạc lối và cũng không pháp môn nào của ngoại đạo lừa gạt mình được.
Trưởng lão Thích Thông Lạc