Thứ Năm, 11 tháng 1, 2024

SỰ KHÁC BIỆT CỦA NGƯỜI ĐỌC SÁCH VÀ KHÔNG ĐỌC SÁCH

SỰ KHÁC BIỆT CỦA NGƯỜI ĐỌC SÁCH VÀ KHÔNG ĐỌC SÁCH 



Người thường xuyên đọc sách toát lên vẻ đẹp "tri thức". 


Nói chuyện với những người đọc nhiều sách bạn sẽ thấy kiến thức của họ rất rộng, lập luận rất chặt chẽ. Khí chất, cách nói năng, quan điểm, hành động hay cách xử lý của những người đọc sách có sự khác biệt hơn nhiều so với những người chẳng bao giờ đọc một cuốn sách nào.


Tầm nhìn của người đọc sách sẽ được tích lũy tăng dần theo số sách mà họ đã đọc.


Người thường xuyên đọc sách có sự ham học hỏi


Bên cạnh mục đích đọc để nâng cao chuyên môn thì phần lớn những người thường xuyên đọc sách đều rất thích đọc, thích tìm hiểu và khám phá một thế giới khác trong sách. 


Người thường xuyên đọc sách rất khách quan 


Bản chất con người luôn là chủ quan, ích kỷ, coi trọng lợi ích bản thân. Nhưng người đọc sách nhiều sẽ thấu tình đạt lý hơn, có góc nhìn khách hơn và dễ đồng cảm hơn. Ngược lại, người không đọc sách nhiều có xu hướng bảo thủ, cố chấp trước quan điểm của người khác.


Người thường xuyên đọc sách nhìn thấu được sự việc


Đọc nhiều giúp ta hiểu được những nguyên lý xuất hiện phía sau một hiện tượng nào đó. Bởi có một số chuyện nhìn có vẻ bình thường nhưng ẩn sau đó là những nguyên lý kinh tế học, tâm lý học... Nếu bạn đọc nhiều sách tâm lý học, bạn sẽ nhận ra những “cái bẫy” tâm lý và các phương thức thao túng đang được áp dụng trong cuộc sống.


Đọc một cuốn sách tốt chẳng khác nào trò chuyện với một người thông minh. Vì vậy, hãy biết cách chọn lọc thể loại sách phù hợp với nhu cầu và nhận thức của bạn.


Không đọc sách thì cũng chẳng phải là chuyện gì xấu xa cả và việc đọc nhiều cũng không đảm bảo khiến bạn thành công. Nhưng chắc chắn rằng đọc sách giúp bạn mở mang tri thức, rèn luyện khả năng đọc nhanh, tư duy ngôn từ và cải thiện trí nhớ rất hiệu quả. 


Đọc sách một thời gian ngắn sẽ không có nhiều sự khác biệt. Nhưng đọc sách một năm, 2 năm, 3 năm và thêm nhiều năm nữa, khác biệt ắt rõ ràng.



Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2023

GỬI ANH - NGƯỜI THẦY CỦA EM

GỬI ANH - NGƯỜI THẦY CỦA EM.


Anh biết không?

Có lần em vô tình đọc một bài viết trên facebook hỏi cộng đồng mạng: "Một người đàn ông không uống rượu, không thuốc lá, không trai gái, không cờ bạc có tồn tại hay không?"

Phía dưới là vô số những bình luận, nào là chỉ có trong tù hoặc là kẻ ăn mày, kiếm đâu ra...

Những người đàn ông đọc được bình luận này có vẻ khoái trí, tag tên vợ và bạn gái vào để đọc. Với ý nghĩ: coi đi, coi đi, lấy đâu ra người như vậy mà đòi với hỏi. 


Thế rồi có một bình luận mà em rất tâm đắc: "Hãy tìm một Phật tử nam thuận thành theo truyền thống Phật giáo Theravada, họ không uống rượu, không hút thuốc, không cờ bạc hay trai gái. Cơ mà lấy họ xong cũng nên chuẩn bị tinh thần rằng họ sẽ đi tu ngày nào không hay."


Đọc xong bình luận này, em thấy rất chuẩn. Và tự nhiên có một cảm giác hạnh phúc, mãn nguyện trong tâm. Bởi mình chính là người đã tìm ra được người chồng như vậy.

Em cảm thấy đó là phúc phần khi gặp được anh, người không chỉ là bạn đời, bạn đạo mà còn là một người thầy đặc biệt.


Hôm nay, nhân ngày 20.11, ngày để nói lời biết ơn đến những người thầy đã chỉ dạy mình, em xin gửi lời biết ơn tới anh.


Anh à!

Từ khi gặp anh, cuộc đời em đã hoàn toàn thay đổi. Anh chính là người đã nâng đỡ em, cứu giúp em và hơn cả là mang ánh sáng Phật Pháp đến cho em, nhờ đó: 

Từ một đứa nóng giận, nghĩ gì nói đấy, chỉ chúi đầu vào làm ăn, kiếm tiền.

Từ một đứa không có một nền tảng giáo lý Phật pháp nào.

Nay em đã trở thành người biết đâu là thiện, đâu là ác, biết điều chỉnh cảm xúc và buông bỏ những gì không cần thiết.


Đức Phật từng dạy: Người nào làm thiện người đó là người thiện. Người nào vừa làm thiện lại hướng dẫn, dẫn dắt người khác làm thiện, người đó là người thiện trên cả người thiện.

Đối với em, anh chính là người thiện trên cả người thiện.

Sự xuất hiện của anh trong cuộc đời em là một điều kỳ diệu; sự dạy dỗ, chỉ bảo của anh để em có được ngày hôm nay lại một điều kỳ diệu nữa. Em trân trọng và biết ơn anh rất nhiều.


Để đáp lại sự mong mỏi của anh, mỗi ngày trôi qua, em vẫn luôn cố gắng rèn luyện để diệt trừ những tham sân si của chính mình. Nguyện những phước lành nào có được, sẽ là duyên lành giúp anh luôn mạnh khỏe, tinh tấn, giác ngộ, sớm sống đời sống xuất gia, thiểu dục tri túc, để mau giải thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.

Những điều mong ước và ý nguyện này của em, cầu mong sớm được thành tựu như ý!

Thân gửi!

Link bài viết gốc: 

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=pfbid0eTZoJKbQBQnxzksVfHh98iZUcPPpwGVV1Epf594R34vwxbYKghJAS2UttreDq1HXl&id=100002527683459&mibextid=Nif5oz


Facebook tác giả:

https://www.facebook.com/hien.tran.3785?mibextid=ZbWKwL


Facebook chồng tác giả:

https://www.facebook.com/hoainamjsc?mibextid=ZbWKwL




TẠI SAO PHẢI SỐNG PHẠM HẠNH?

 TẠI SAO PHẢI SỐNG PHẠM HẠNH?


Để mà chúng ta làm chủ sự sống chết, cái này là khó nhất. Nói vậy thôi chứ không có vậy. Mà vì một cái gì mà chúng ta phải chấp nhận sống phạm hạnh? Vì sinh tử luân hồi, vì khổ đau của kiếp người, chúng ta mới phát hạnh. Chứ đời sống mà phạm hạnh khổ lắm! Lấy gốc cây mà làm giường nằm, ăn thì đi xin từng nhà, chứ không phải là được một nhà cung cấp mình, cũng không đúng đâu. (0:26) Như đức Phật nói mà xin ăn, mà phải xin nhà cho miếng, miếng. Chứ còn mà một nhà cho đủ ăn là thấy cũng chưa phải đúng đâu. Cho nên, thí dụ bữa nay nhà này cấp đủ ăn bữa nay, nó cũng chưa đúng cái hạnh đâu. Ờ, lại chỗ này họ cho chén cơm, lại kia họ cho miếng muối, chỗ nọ họ cho cọng rau thì cái đó là đúng cách, là cái phạm hạnh đó. Kinh lắm chứ không phải dễ đâu. Còn y áo mà nó lành lẽ như quý sư thì không phải y phấn tảo đâu. Nghĩa là dơ bẩn mà như cái áo của Thầy như thế này ấy, rồi vá víu là đúng phấn tảo rồi. Thì các sư nên nhớ rằng hết còn có làm đẹp chỗ nào nữa hết. Chứ nhiều khi nó làm như thế này, nó còn đẹp đó, là ông sư cũng đẹp lắm ấy chứ. Còn ông sư mà bận đồ vá, đồ dơ, đồ bẩn như Thầy vầy đây, ông sư hết đẹp rồi. Thấy là hết có muốn có tình cảm gì ông sư đó nữa. Như vậy mới dễ tu đó. Chứ Phật tử nó có tình cảm, nó cung cấp thôi ăn, uống, mặc đầy đủ hết thì chắc ông sư đó chết luôn rồi. Còn nó không tình cảm, nó không cúng dường. Ông đến, thấy nó nghèo quá họ thương, họ cho để sống vậy chứ, thấy ông sư cũng thấy không ưa. Đó! Thầy nói thật sự, càng mà ăn mặc xấu. Người ta cảm tình được là thấy ông đó đẹp. Còn thấy ông đó mặc đồ bẩn thỉu, dơ dáy người ta không có cảm tình bằng cái người mà sang đẹp. Cái tình cảm con người họ đặt sai hướng. Họ chỉ có thương thôi. Thương là tại ông đó nghèo quá, không có quần áo, rách rưới, mặc đồ bẩn, thương! Thương hại đó, chứ không phải là thương thật. Còn thấy cái ông đó ăn mặc sang đẹp, cái tình cảm của họ đặt vào đấy. Cho ổng ăn cái này, giúp cho ổng cái kia nữa, ổng là Phật, đẹp! (2:19) Cho nên người ta tưởng ông Phật đẹp lắm như là cái cốt tượng, nhưng không phải. Ông Phật xấu lắm, như cái ông già lụm cụm. Ăn ngày một bữa, đâu có ăn nhiều được, đâu có mập được. Còn bộ xương không, chứ làm gì mà mập được. Thế mà ông Phật của mình như búp bê. Như đứa bé mà nó đã sổ sữa vậy, cha mẹ cho uống sữa quá tay, nó ú nù. Bởi vậy từ cái tượng Phật, nó đã hiểu lầm ông Phật rất đẹp. Thì Thầy thấy không phải, ông Phật không đẹp. Đẹp sao ông bảo: “Cạo bỏ râu tóc khoác áo cà sa?”. Là đâu còn đẹp nữa. Nghĩa là làm cho hết đẹp rồi mà, còn cái gì đẹp nữa? Thế mà bây giờ chúng ta lại sai, hiểu sai. Tưởng ông Phật đẹp lắm, nào hào quang, tướng hảo quang minh. Thầy nói cái thân này bây giờ có tướng hảo quang minh, nó cũng là một đống rác hôi thúi, chứ có gì? Phải không? Có cái thân ai mà đẹp đẽ mà gọi là nó không thơm bao giờ đâu? Bây giờ chúng ta thấy có một cái người đó đẹp thật đẹp. Nhưng mà họ nhổ nước miếng ra, họ khạc đàm ra, chúng ta thấy đẹp chỗ nào? Ghèn cháo đẹp chỗ nào? Cứt mũi nè, cứt ráy nè, chỗ nào đẹp nữa đâu?! Đâu thấy đâu có đẹp đâu! Thật sự ra, cứ hễ mang cái thân này thì không bao giờ đẹp hết. Thậm chí như có người đến đây hỏi Thầy, nghe nói: “Một người tu cái thân không có cần tắm nữa, mà nó thơm tho”. Thầy nói: Chỉ có con chồn hương hay là con chồn đèn, chồn xạ nó vậy thôi chứ. Còn không có con người mà mang cái thân này mà gọi là thơm tho nữa. Chỉ có con chồn xạ là nó thơm theo kiểu nó. Tu mà thành chồn xạ chắc Thầy không có ham đâu”. Thầy nói thẳng mà, cái thân này là cái thân hôi thúi mà, nó bẩn thỉu mà. Cái thân là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà, làm sao mà gọi là tu mà để cho thơm tho? Mấy người nói, cái đó là cái sai! Người ta tu là người ta ra khỏi cái thân cũng như người ta ra khỏi cái tù. Còn vầy để cho thơm tho đặng mang đi. Thầy nói thật sự, Thầy mua một lố nước thơm, một lố dầu thơm, đi đâu Thầy cũng xịt vô trong đó thì chắc là thơm dữ lắm. Thì Thầy cần gì mà Thầy phải đi tu chi cho nó cực, để mà cho cái thân nó thơm. Chỉ đem dầu thơm mà xịt cho nó cũng thơm chứ gì?

(Trích trong tài liệu chuyển ngữ " Vấn Đạo 2002" - Trưởng Lão Thích Thông Lạc)


BẠN

 ‘BẠN’ 


Một khi chúng ta lơ đễnh, buông mình theo một niềm đam mê nào đó thì nguy cơ thiện pháp cũng bị thả trôi rất dễ. Khả năng đó rất lớn! Một người có đắc thiền như ông Devādatta, chỉ vì một phút mềm lòng trước cám dỗ danh lợi mà chuyện gì cũng làm. Một vị đắc thiền như thế này chỉ một phút lơ đễnh cũng quên mình, suýt nữa gieo họa rồi, người say chuyện gì cũng làm.


Trong kinh kể Bồ tát Thích Ca Mâu Ni rất nhiều lần đắc thiền, đắc thần thông, gặp nữ sắc cũng bị đứt thiền, lúc đi thì bay, lúc về lội bộ ‘thấy bà’ luôn. Chuyện đó thường lắm. Chuyện phiền não hễ lơ đễnh là dính. Chúng ta hãy nhớ mỗi người sanh ra có hai cánh tay, có người thuận tay phải, có người thuận tay trái, đó là nói về thể xác; còn nói về tinh thần và tâm linh thì mỗi người cũng có hai bản năng: thiện và ác, vấn đề là ở chỗ ta thuận tay nào, và trong hai bản năng đó ta mạnh bản năng nào. 


Thật ra ở mỗi người bản năng thiện hay ác khó nói cái nào mạnh hơn. Dĩ nhiên thường mình thấy ác mạnh hơn, nhưng không phải vì nó mạnh mà mình bỏ qua điều kiện khách quan. Ví dụ mình là người tánh tham nhiều sân nhiều, nhưng nếu mình có chú ý đến bối cảnh sống, điều kiện thầy bạn chung quanh thì mình bớt sân, bớt tham, bớt nhỏ mọn, bớt keo kiệt. Mình là người lười học hay hiếu học, đó là bản tánh của mình, nhưng cũng nhờ sự hỗ trợ của thầy bạn rất là nhiều. Bởi nếu không có sự hỗ trợ của thầy bạn, của điều kiện sống chung quanh thì chúng ta rất dễ rơi vào tình trạng buông trôi thả nổi con người của mình. 


Lần đó ngài Ānanda vào thưa với Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, con thấy trong đời tu, tình bạn quan trọng quá, con nghĩ tu phải nỗ lực, nhưng phần nỗ lực của mình chỉ là một nửa, một nửa là phải nhờ sự hỗ trợ của bạn bè.”


Đức Phật dạy: “Này Ānanda, ta không nói một nửa mà ta nói toàn bộ chớ không phải một nửa”.


Tại sao Đức Phật lại nói vậy, không lý nào Ngài phủ nhận sự tự lực, tự giác, tự độ, tự tu, tự tĩnh của mỗi cá nhân mà phải dựa vào bạn? Ở đây Ngài định nghĩa chữ ‘bạn’ theo một lối rất mới.


‘Bạn’ ở đây được định nghĩa rất rộng. Bạn là tất cả những ai và những gì thiết thân, kề cận, gần gũi và nhiều tác động với ta nhất. 


Ví dụ, facebook cũng là một người bạn, còn nó là bạn xấu hay bạn tốt thì quí vị tự hiểu. Xấu là càng chơi với nó mình càng tệ, càng kém, còn mỗi ngày lên facebook mà quí vị thấy thiện pháp đạo nghiệp của mình ngày một phát triển thì đó là bạn tốt. 


Người cũng vậy, vật cũng vậy. Có những người ở gần họ thiện pháp của mình phát triển. Chú giải nói rất rõ, kinh Tứ Niệm Xứ dạy rằng, khi mình muốn trau dồi một thiện pháp nào đó thì ở gần người mạnh về cái đó. Muốn kham nhẫn giỏi thì ở gần người giỏi nhẫn. Muốn trau dồi chánh niệm thì phải ở gần cá nhân hay tập thể nào niệm mạnh, miên mật. Định, Xả, hạnh bố thí cũng vậy. Ở gần người kẹo lâu ngày mình cũng kẹo.


Cái gì lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ để lại một nếp hằn, một dấu ấn. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy rằng, đừng nói bạn bè chỉ là một nửa của đời tu mà phải nói là toàn bộ, vì trong tất thảy những gì ta gặp gỡ, cọ quệt va chạm mỗi ngày chính là cơ sở nền tảng để ta trở thành ai đó. 


Hôm nay chúng ta đang sống trong thế giới điện toán, bạn mình tràn lan, nhiều khi mình nói mình ở một mình nhưng 11 giờ khuya mình còn thức online, bốn giờ sáng chưa ra khỏi giường là chụp ipad, tablet coi có ai gởi tin nhắn, email gì không, đó là người bạn của mình, bạn lành hay bạn xấu thì tùy quí vị biết. Kể từ bây giờ khi nghe kinh này mình phải nhớ một chuyện: tôi sẽ cẩn trọng với tất cả những người hay vật chung quanh tôi, tôi sẽ rất cẩn trọng với nếp sinh hoạt thường nhật của tôi, vì tất thảy những thứ đó sẽ để lại vết hằn hoặc dấu ấn lên con người tôi.


Người sống theo chánh đạo và những điều kiện hỗ trợ ta sống theo chánh đạo được gọi chung là bạn lành. Người sống theo tà đạo và những điều kiện hỗ trợ ta sống theo tà đạo được gọi là bạn xấu. Hãy nhớ rằng, ngày chúng ta ra đời, chúng ta chỉ có một mình thôi. Lọt lòng mẹ, chúng ta có mẹ, có cha, có anh, có em, có chị; lớn lên chúng ta có tình yêu, có hôn nhân; ngoài xã hội chúng ta có bạn bè, có chủ tớ trong công việc; nhưng thật ra lúc đau đớn nhất đời thì chúng ta chỉ có một mình. 


Đối diện với tai tiếng hay những suy sụp về sức khỏe thì chúng ta chỉ có một mình, và mai này đối diện với cái chết chúng ta chỉ có một mình. Chính vì vậy Đức Phật mới định nghĩa chữ ‘bạn’ rộng một chút. Có những lúc chúng ta không có người nào để làm bạn thì chúng ta tự tạo, tự tìm những người bạn không có hai tay hai chân. Đó chính là nếp sống của chúng ta. Có một ngày cả thế giới đều quay lưng với chúng ta, chúng ta vẫn có thể sống an lạc, sống thiện lành với chính mình, chúng ta vẫn còn đó một người bạn.


Sư Giác Nguyên giảng


Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasam Buddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasam Buddhassa. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasam Buddhassa. 



Thứ Tư, 25 tháng 10, 2023

BÁT CHÁNH ĐẠO - Sư Giác Nguyên

 BÁT CHÁNH ĐẠO

1️⃣ CHÁNH KIẾN: Là Trí tuệ hiểu được Bốn Đế.
2️⃣ CHÁNH TƯ DUY
👉 Ly dục: Có nghĩa là không ý niệm tham thích gì hết.
👉 Vô sân: Có nghĩa là không bất mãn gì hết.
👉 Bất hại: Có nghĩa là không nhiễu hại, không gây tổn thương cho ai hết.
3️⃣ CHÁNH NGỮ
👉 Chánh ngữ hiện tượng: Là nói lời lành, không nói lời vô ích cho mình cho người, không nói lời tổn thương ai.
👉 Chánh ngữ bản chất: Là bằng tâm trạng nào mà ta không nói dối được, không nói lời ác độc, tổn thương người khác, không nói lời phù phiếm vô ích, phiếm luận, không nói lời gây chia rẽ ai.
4️⃣ CHÁNH NGHIỆP
👉 Chánh nghiệp hiện tượng: Là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh.
👉 Chánh nghiệp bản chất: Là tâm trạng nào giúp mình tránh được không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh.
5️⃣ CHÁNH MẠNG
👉 Chánh mạng hiện tượng: Là không kiếm sống bằng những nghề nghiệp sinh kế bất thiện hại mình hại người.
👉 Chánh mạng bản chất: Là tâm trạng nào giúp mình chọn sinh kế lương thiện.
6️⃣ CHÁNH TINH TẤN
👉 Theo A Tỳ Đàm là tâm sở cần, siêng năng.
👉 Theo tạng kinh là chánh cần, và chánh cần là chánh cần hiện tượng và chánh cần bản chất.
Chánh cần hiện tượng là: Thận, Trừ, Tu, Bảo
- Thận cần: Nỗ lực ngăn cái ác chưa có.
- Trừ cần: Nỗ lực trừ cái ác đang có, đã có.
- Tu cần: Nỗ lực gầy dựng cái thiện đã có.
- Bảo cần: Nỗ lực duy trì cái thiện đã có.
Chánh cần bản chất là tâm sở cần, trạng thái nỗ lực, siêng năng, không lui sụt, không bỏ cuộc, không buông xuôi.
7️⃣ CHÁNH NIỆM
👉 Chánh niệm bản chất: Là khả năng ghi nhớ không quên mình, làm gì biết cái đó, không buông xuôi thực tại, từng khoảnh khắc thực tại đều được, ghi nhận một cách kịp thời.
👉 Chánh niệm hiện tượng: Là chánh niệm trong pháp môn Tứ Niệm Xứ. Biết rõ đi biết là đi, ngồi biết là ngồi, nằm biết là nằm, ăn uống biết là ăn uống, co duỗi biết là co duỗi biết rõ, tiêu tiểu biết rõ là tiêu tiểu, ăn uống, nhai nuốt, mặc áo, cởi áo…
8️⃣ CHÁNH ĐỊNH
👉 Chánh định bản chất chỉ là tâm sở định.
👉 Chánh định hiện tượng: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Sư Giác Nguyên giảng
(Tóm tắt bài giảng của Sư Toại Khanh)

Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2023

PHÉP LẠ TRONG ĐẠO PHẬT

 PHÉP LẠ TRONG ĐẠO PHẬT


● Lẽ ra chuyện đó đã xảy ra, phải xảy ra nhưng nó không xảy ra.
Đó là phép lạ thứ nhứt.
● Khi người ta mắng mình, người ta bạc đãi mình, người ta xúc phạm mình, người ta làm tổn thương mình lẽ ra mình nổi giận, mà mình không nổi giận.
Đó là phép lạ của đạo Phật.
Có hiểu không?
● Mình đang nghèo, mình không đủ ăn nhưng mình vẫn đủ hào sảng chia sẻ cái mình có cho người khác.
Đó là phép lạ của đạo Phật.
● Giữa một thành phố ồn ào, náo nhiệt, nhộn nhịp như thế này ấy vậy mà vẫn có người Phật tử ngồi thiền.
Đó là phép lạ của đạo Phật.
● Giữa khi kinh tế toàn cầu đang gặp biến động với những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội ấy vậy có những người vẫn đêm đêm bình tâm lần chuỗi, vẫn đêm đêm bình tâm hít thở ra vào, giữa lúc mùa covid giăng bủa tứ bề, nhà nhà người người sống trong âu lo tuyệt vọng, ấy vậy mà có những kẻ đêm đêm vẫn nhìn lên Phật mà an lạc với riêng mình.
Đó là phép lạ của đạo Phật.
● Lẽ ra phải run, phải lo, phải sợ, phải buồn, nhưng mà không.
Có những kẻ ngay ở thành phố này, ngay đất nước này đã thực hiện được một phép lạ của đạo Phật đó là không buồn, không lo, an lạc.
Đó là một phép lạ của đạo Phật.
● Phép lạ thứ hai, lẽ chuyện đó không xảy ra nhưng nó lại xảy ra.
● Lẽ ra chúng ta không đủ hào sảng nhưng mình lại đủ hào sảng.
● Lẽ ra mình phải nổi giận nhưng mà lại không nổi giận.
Đó chính là phép lạ của đạo Phật.
Tôi mong rằng mai này những người không biết Phật Pháp, kể cả những người bạn khác tôn giáo khi hỏi đến Phật tử Hà Nội và những ai nghe lại bài giảng của chúng tôi ngày hôm nay khi hỏi về Phật Pháp rằng:
- Hôm nay, thời đại hôm nay có phải là thời mạt pháp hay không, khi chúng tôi không nhìn thấy một Tăng, Ni, Phật tử nào thực hiện thần thông, phép lạ?
Các vị hoàn toàn có thể thanh thản trả lời rằng:
- Thưa bạn, chúng tôi có phép lạ.

● Lẽ ra trước câu hỏi dễ ghét tôi đã nổi điên mà tôi đã không nổi điên.
Đó là phép lạ.
● Lẽ ra người như bạn tôi không thương nổi nhưng tôi vẫn thương được.
Đó là phép lạ.
● Lẽ ra ngồi khơi khơi như thế này với một cái ghế không có chỗ dựa như thế này, trong một điều kiện nhiệt độ như thế này rất là khó chịu nhưng vẫn nhăn răng cười được đó là phép lạ.
Các vị tưởng tượng đi, nếu chiều nay tại đây và bây giờ. Tôi biểu diễn phép lạ, tôi giẫm lên than hồng, tôi nuốt than, tôi nuốt dao lam, tôi đi trên nước, tôi độn thổ các vị nhìn sướng thiệt, nhưng mà nói thiệt nghe, trong bụng nghĩ sao?
Nói thiệt, đừng nói dối.
Những phép lạ đó của tôi có giúp được gì cho các vị hay chỉ nhìn cho sướng mắt? Nhưng mà nếu từng người ở đây đối xử với nhau bằng sự cảm thông, bằng sự yêu thương, bằng sự chia sẻ thì xin hỏi phép lạ ấy ảnh hưởng tích cực đến xã hội Hà Nội hay không?
Như vậy, phép lạ đạo Phật có cần hay không?
Cần chứ.
Đạo Phật ra đời đem lại cái cần chứ không đem lại cái lạ.
Ngay tại đây và bây giờ, bà con hoàn toàn có thể thực hiện phép lạ. Chữ phép lạ hôm nay tôi nói là cái gì?
● Chuyện lẽ ra phải xảy ra nhưng nó không xảy ra là phép lạ.
● Chuyện không xảy ra nhưng đã xảy ra đó là phép lạ.
● Thương được cái thiên hạ thương không nổi đó là phép lạ.
● Bỏ được cái thiên hạ không bỏ được đó là phép lạ.
● Có khả năng đui mù câm điếc khi mình vẫn ngon lành đó là phép lạ.
Chuyện rất đặc biệt.

● Trích Pháp thoại chùa Phụng Thánh, Hà Nội – 13/10/2023
🌾 Sư Giác Nguyên giảng.
(Toại Khanh)
Tri ân cô Diệu Hỷ ghi chép.

🙏Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2023

ĐỪNG CỐ HỌC GIỎI Ở VIỆT NAM…

"Ăn thì phải no, học thì phải giỏi, yêu là phải cưới, cưới là phải sinh con, sinh con thì con cũng phải học giỏi, học giỏi là phải trường chuyên, trường chuyên nhưng còn phải lớp xịn, lớp xịn là phải đỗ đại học, đại học là phải top đầu, top đầu là phải… không thất nghiệp, và không thất nghiệp… rất có thể phải “chạy” – điều mà những người Giỏi thực sự không bao giờ làm. Bạn thấy đấy, rất nhiều nghịch lý luẩn quẩn hiện có trong xã hội của chúng ta đều ít nhiều liên quan đến một từ: GIỎI. Tuy nhiên, đã bao giờ bạn nghĩ chúng ta chẳng nên cố bằng mọi giá để học quá giỏi? Dưới đây là 5 lý do mà bạn có thể sẽ cực kỳ “phản đối”!


1. Để học giỏi ở Việt Nam cần phải tốn quá nhiều thời gian cho việc học, học trên lớp, học ở nhà, học thêm, học phụ đạo… trong khi một ngày mãi mãi cũng chỉ có 24 giờ do đó, thời gian dành cho những thói quen lành mạnh như chơi thể thao, thư giãn rèn luyện thân thể không có nhiều và càng học lên cao càng bị cắt ngắn, dẫn đến nguy cơ lâu dài: sức khoẻ yếu. Sức khoẻ yếu, học giỏi vô nghĩa!


2. Để học giỏi ở Việt Nam, bạn cần phải “học đều” – một khái niệm đặc sản nhưng không hề thơm ngon của nền giáo dục Việt Nam, tức là phải học giỏi tất cả các môn, đầu tư thời gian dàn trải để giỏi tất cả các môn đồng nghĩa là rất khó cho bạn để có chặng nghỉ nghĩ về những gì mình yêu thích nhất và có tiềm năng phát triển nhất. Rất nhiều học sinh giỏi cái gì cũng giỏi nhưng chẳng thật sự giỏi cái gì. Rất nhiều học sinh khi được hỏi “Em thích làm gì nhất?”, trả lời “Em không biết.” Một hành trang quá cồng kềnh và bị nhồi nhét chỉ làm cho cuộc hành trình của bạn thêm mệt mỏi. Hãy biết chọn lọc!


3. Để hoc giỏi ở Việt Nam, bạn cần phải hấp thụ rất nhiều kiến thức bạn học xong không biết để làm gì? Không là kỹ sư, không theo nghiệp kỹ thuật, bạn sử dụng đạo hàm, sử dụng hàm số, sử dụng tích phân để làm gì...? Mà muốn sử dụng, bây giờ có vô số phần mềm và ứng dụng làm thay con người những tính toán đó. Bạn có định tự kéo cày trong khi nhà có trâu và có máy? Người ta hay nhắc bạn tiết kiệm điện, tiết kiệm nước, nhưng không ai nhắc bạn tiết kiệm tài nguyên não của chính bạn.


4. Để học giỏi ở Việt Nam, ít nhiều bạn bị mất một chút tự do, và buộc phải là bản sao tư duy của ai đó. Nói đến Tấm là phải ngoan hiền, nói đến Cám là phải gian ác, trong khi bạn đang nghĩ đến điều ngược lại, nhưng không được đâu, cô không thích điều này! Bạn chưa hiểu, bạn cần học lại, học kỹ hơn, không được, lớp cần 90% học sinh giỏi, chỉ tiêu chỉ được 10% học sinh khá, và tuyệt nhiên không được ai ở lại lớp. Bạn cần phải là một bông hoa đẹp trong vườn hoa toàn Học sinh Giỏi của cả lớp, của trường, trong cánh rừng học sinh giỏi của Thành phố. Việc chấp nhận mất tự do tư duy từ nhỏ trong học đường làm cho bạn dễ chấp nhận hơn với việc mất tự do trong cuộc sống sau này.


5. Để học giỏi ở Việt Nam, cuộc sống của bạn rất dễ bị mẻ, bị nứt, bị lệch và rất có thể bị vỡ nữa. Bạn còn quá trẻ và non nớt, vì thế nên bạn cần đi học để trưởng thành lên theo năm tháng, nhưng bố mẹ và thầy cô luôn cần bạn phải là số 1, không được là số 2, nhất định phải là số 1, và họ thi nhau chất lên lưng bạn những áp lực nặng nề mà chính bạn cũng không thể biết được đâu là tới hạn. Đến khi bạn kém giao tiếp, ứng xử lúng túng, không biểu đạt ngay cả những gì mình muốn nói, không tự tin giữa đám đông chỉ vì ngoài giờ học bạn không còn người bạn thân nào hơn Facebook, Zalo và máy tính và điện thoại, không có thời gian để quan sát cuộc sống tươi đẹp xung quanh. Coi chừng! Rất có thể, đấy là cách những tờ giấy khen Học sinh giỏi âm thầm đánh cắp tuổi thơ của bạn.


Bố mẹ Việt đang nhầm lẫn tai hại giữa: học Tốt và học Giỏi, nhiều phụ huynh cứ có niềm tin mù quáng là con cứ học giỏi là chắc chắn là có vé đi ga "Tương Lai Hạnh Phúc" thế là cứ cố nhồi con học cho đến khi họ nhận ra sự thật bẽ bàng: học giỏi mà không hạnh phúc thì còn bất hạnh hơn học dốt mà biết cái gì là tốt.


Vấn đề không nằm ở Bộ Giáo dục, mà nằm ngay trong chính tâm thức mỗi ông bố bà mẹ: có dám để cho con mình học dốt - học theo đúng năng lực của mình hay không, hay sợ dư luận chê cười? Sợ đến chết!


Bên cạnh quyền được Khổ, quyền được Dốt cũng là một trong những quyền của học sinh đang bị phụ huynh Việt xâm phạm thô bạo.


Nếu con bạn là cây Tùng xin đừng trồng trong chậu, chăng đủ thứ đồ trang trí lên và gọi nó là cây Thông Noel"…!


HOÀNG HUY

#8saigon

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2023

Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết

 Tỉnh thức trước bệnh tật và cái chết

Lời Phật dạy trong kinh văn nguyên thủy

Bhikkhu Analayo (2017). Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts.

GIỚI THIỆU (NXB)

Bệnh tật và tử vong là những phần không thể phủ nhận của cuộc sống con người. Tuy nhiên, khi chúng xảy ra, tâm chúng ta dễ bị chấn động bất ngờ. Để chuẩn bị cho những sự kiện này, chúng ta cần phải học cách khéo léo đối diện với bệnh tật và cái chết. Một nguồn trí tuệ thực tế có thể tìm thấy trong những bài kinh ghi lại lời dạy của Đức Phật và các vị đệ tử. Mục đích chính của cuốn sách này là cung cấp một bộ sưu tập các đoạn kinh văn trích từ những bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật, cung cấp các hướng dẫn để đối phó với bệnh tật và tử vong. Tuyển tập nầy tập trung vào chủ đề từ bi, và chú trọng đến “anukampa”: lòng bi mẫn như là động lực cơ bản trong hành động vị tha. Cuốn sách kết hợp các bản dịch tiếng Hán từ bản gốc tiếng Phạn Sanskrit, với các giới thiệu giải thích thông điệp cơ bản, làm rõ thuật ngữ và ý tưởng trong kinh văn, và từ đó rút ra một số ý nghĩa thực tiễn. 

GIỚI THIỆU (Tỳ-khưu Ānalayo)

Nguồn cảm hứng để biên soạn cuốn sách này là từ người bạn đạo và đồng nghiệp Aming Tu (Đỗ Chính Dân) ở Cổ Pháp Sơn (鼓法山 Dharma Drum Mountain), Đài Loan. Là một giáo sư về Tin học Phật giáo và một hành giả Thiền tông Đông độ, Aming Tu đã tìm thấy các bài kinh giảng về bệnh tật và cái chết trong các bộ A-hàm Hán tạng là một nguồn lực hỗ trợ to lớn khi phải chịu đựng sự suy thoái cơ thể của ông vì bệnh ung thư. Nhận thức được lợi ích ông có được từ những bài kinh nầy, ông ước muốn các lời giảng dạy đó được dịch và giải thích để phổ biến rộng rãi đến mọi người. Khi ông chia sẻ ý tưởng đó với tôi, tôi rất hoan hỷ làm theo và cuốn sách nầy là kết quả của kế hoạch mà chúng tôi cùng thực hiện. Trong Lời Bạt của cuốn sách, Aming Tu chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, mô tả các phương cách ông tìm thấy từ các bài kinh trong bộ A-hàm Hán tạng để giúp ông đối diện với bệnh tật và cái chết. 
 

LỜI BẠT (Aming Tu, 杜正民 - Đỗ Chính Dân)

Lần đầu tiên khi tôi được chẩn đoán là bị bệnh ung thư và phải nhập viện, tôi bị sốc khi phát hiện ra rằng, trong số hàng ngàn cuốn sách mà tôi đã sưu tập, tôi không tìm thấy được một cuốn sách nào mà tôi có thể mang theo với tôi, vì mặc dù đã từng đọc vô số sách trong đời, không có một cuốn nào có thể đi cùng tôi trong cuộc hành trình cuối đời nầy. 

QUÀ TẶNG BẤT NGỜ
Vào cuối năm 2005, tôi đưa mẹ tôi đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe. Trong khi chờ đợi, tôi dùng cơ hội nầy để tiện thể xin kiểm tra luôn cho tôi. Ngay sau khi khám siêu âm, bác sĩ thấy có vấn đề trong lá gan. Ông lập tức đưa tôi vào phòng chụp hình cộng hưởng từ trường (MRI) và thu xếp cho tôi nhập viện. Tôi nhớ ngày tôi được chẩn đoán bị bệnh ung thư, tôi đi bộ đến núi Dương Minh (陽明山, Yangmingshan) như tôi vẫn thường làm, để ngắm hoa và ăn các loại rau cải địa phương; tôi vẫn thưởng thức một buổi trưa thanh thản, không cảm thấy buồn rầu. Sau đó, tôi nhanh chóng viết chúc thư và kết thúc mọi công việc để sửa soạn cho mười ngày nằm viện. 

Nằm ở bệnh viện cũng giống như đi tĩnh tâm; mình sống với chính mình và trải nghiệm với sự sống và chết. Tôi sẽ đi du lịch mười ngày với thân và tâm. Mang theo một túi xách nhỏ, tôi bước vào phòng bệnh viện và bắt đầu gặp gỡ với cuộc sống và bệnh tật của tôi. Từ cái nhìn nầy, đây là một cơ hội quý báu, tôi không còn có thể dùng sự bận rộn công việc như là một cái cớ để trốn tránh. Cuộc tĩnh tâm mười ngày nầy là một dịp may vô giá để tôi lắng đọng và kết nối trở lại với thân và tâm của tôi.

THÂN VÀ TÂM TRONG MƯỜI NGÀY NHẬP VIỆN TĨNH TÂM 
Bởi vì đây là lần đầu tiên tôi nhập viện, mọi việc đều mới lạ cho tôi, và các trải nghiệm ở đó hoàn toàn khác hẵn những gì quen thuộc hàng ngày. Mắt chỉ thấy người ta, sự kiện và những thứ liên quan đến bệnh tật; tai chỉ nghe những tiếng rên rỉ, than thở buồn rầu; mũi chỉ ngửi được mùi thuốc và mùi bệnh; lưỡi chỉ nếm các chất đắng và vô vị; và thân chỉ tiếp xúc với các bề mặt lạnh lẽo của thiết bị y tế hoặc cảm giác đâm chích của các mũi kim. Trải nghiệm tinh thần và thể xác của năm uẩn cấu tạo thân nầy – sắc, thọ, tưởng, hành, thức – cũng rất lạ lùng và khó chịu.

Tôi chịu nhiều thống khổ trong thời gian đó, nhưng thử thách khổ sở nhất là cơn đau thể xác. Cơn đau nầy không cho tôi ngồi, nằm, hay ngủ và có khi làm tôi khó thở. Cảm giác nghẹt thở khi bị cơn đau khốc liệt hoành hành, không có chữ nghĩa nào có thể dùng để diễn tả cho bác sĩ hiểu. Sự đau đớn như thế nầy có lẽ tương tự như cơn đau mà ngài Khemaka đã diễn tả trong Tạp A-hàm: “Cơn đau nầy như thể người đồ tể dùng con dao bén rạch bụng một con bò còn sống để moi lấy nội tạng của nó. Làm sao con bò có thể chịu được những cơn đau nơi bụng như thế? Bụng của tôi bây giờ đang chịu đau đớn hơn cả bụng bò.”  Khi tôi đọc đoạn kinh nầy, tôi đã bị sốc vì không ngờ đoạn kinh đã diễn tả chính xác và sinh động về trạng thái đau đớn của tôi.

CƠN ĐAU LÀ MỘT CÔNG ÁN 
Kiểu đau không chịu nổi nầy khiến tôi tự hỏi: Có loại giảng dạy nào có thể giúp tôi vượt qua khổ đau mãnh liệt nầy? Ngoài cơn đau thể xác, tôi còn phải tìm cách đối diện với cảm giác bấp bênh bất định của cơn bệnh. Trên báo chí, ung thư thường được cho là sẽ đưa đến cái chết không thể tránh khỏi; và do đó, vấn đề về cái chết thường xuất hiện trong tâm trí tôi, mang theo nhiều âu lo. Có thể nói rằng cảm giác về đau và sự bất lực không thể nào được hiểu rõ bởi người quan sát mà chỉ biết đồng cảm.

Trong tình huống nầy, khi tôi tìm cách đối diện với cơn đau và cái chết, tôi bắt đầy suy ngẫm sâu xa hơn: Những lời dạy nào của Đức Phật mà tôi có thể nương tựa và được hướng dẫn cho phần còn lại của đời tôi? Đức Phật đã hướng dẫn người bệnh và người sắp chết như thế nào? Ngài dạy họ phải đối diện cái chết như thế nào? Những câu hỏi đó xoay vần trong tâm trí tôi như thể là một “thoại đầu” – một từ hay một câu để quán soi trong Thiền tông Đông độ, cũng thường được gọi là “công án”.

TÌM KIẾM CẢM HỨNG TỪ KINH ĐIỂN 
Sau khi rời bệnh viện, tôi bắt đầu khảo sát các bài kinh để tìm một phương pháp thực hành thích hợp cho người bệnh và người sắp chết. Cuối cùng, tôi tìm thấy một nhóm các bài kinh trong Tạp A-hàm ghi lại các lời giảng dạy của Đức Phật cho các vị đệ tử về các phương cách thực hành để đối diện với bệnh tật, đau đớn và cái chết. Những kinh văn nầy ghi lại phương cách Đức Phật dạy các đệ tử khi lâm trọng bệnh – bao gồm các vị trưởng lão và sa-di, cũng như các cư sĩ già lẫn trẻ. 

Khi tôi bắt đầu đọc các bài kinh đó, tôi rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng mặc dù các bài kinh đó có vẻ đáp ứng ngẫu nhiên về các tình huống đặc biệt, chúng ta có thể tìm thấy trong các bài kinh nầy một sự trình bày súc tích, gọn gàng, đơn giản, có hệ thống về sự thực hành và khuôn khổ các khái niệm. Càng đọc và phân tích nội dung các bài kinh, tôi càng hoan hỷ và tràn ngập niềm vui thích. 

Khi tôi đọc so sánh các bài kinh Pāli tương ứng, tôi cũng thấy nghiên cứu đối chiếu như thế nâng cao tầm hiểu biết về sự giảng dạy của Đức Phật và giúp tôi xác định cốt lõi thông điệp của Ngài. Sự nghiên cứu đó giúp tôi có thể diễn tả cấu trúc tổng thể của giáo pháp cũng như xác định các giai đoạn tuần tự của thực tập, cho thấy bộ sưu tập các bài kinh là một nguồn quý giá để thực hành. 

Trong những năm sau, khi phải nhập và xuất viện nhiều lần, các bài kinh nầy không những là bạn đồng hành quý báu để tôi đối mặt cơn bệnh mà tôi còn chia sẻ các bài đó đến những người chung quanh, ở trong lớp học với các sinh viện hay trong những lúc nói chuyện ngẫu nhiên với bạn bè. Tuy thế, có lẽ vì đa số chúng ta xem cái chết rất xa vời, những người tôi tiếp xúc đã không dành thì giờ để tìm hiểu sâu xa các bài kinh đó. Tôi cảm thấy như thể tôi đã thất bại không giúp được họ hiểu được tầm quan trọng của các lời giảng dạy nầy. Vì lý do đó, tôi quyết định sắp xếp các kinh văn thành một tập sách với hy vọng rằng, cùng với các cố gắng sơ bộ của tôi để phân tích và phân loại nội dung các bài kinh trong tay, tôi sẽ dễ dàng chia sẻ những lời dạy của Đức Phật đến những người ấy. 

CÂU CHUYỆN CỦA ÔNG CẤP CÔ ĐỘC 
Trong các bài kinh trong bộ sưu tập mà tôi đọc được, câu chuyện cảm động nhất là câu chuyện về ông Cấp Cô Độc. Ngài Ānanda và Sāriputta (Xá-lợi-phất) đến thăm ông khi nghe tin ông lâm bệnh nặng. Khi hai vị trưởng lão hỏi ông Cấp Cô Độc cảm thấy thế nào, vị gia chủ đáp: “Cơn đau bây giờ lên đến cực độ, con cảm thấy càng lúc càng gia tăng, không suy giảm.” Tiếp đó, ngài Sāriputta hướng dẫn giúp ông trực diện với cơn đau và cái chết. Sau khi nghe xong, ông Cấp Cô Độc rơi nước mắt; phản ứng đầy cảm xúc nầy được kích hoạt từ giáo pháp tuyệt vời do ngài Sāriputta giảng dạy. Thật vậy, ông Cấp Cô Độc đã thực hành Pháp hơn hai mươi năm và do đó, đã có thể can đảm đối phó với cơn đau càng lúc càng gia tăng. Tôi thật sự xúc động khi đọc đoạn kinh văn nầy. Nó cũng khiến tôi suy nghĩ: “Tôi đã học giáo pháp nhiều năm rồi, nhưng thật sự đã học được gì?”

Trong suốt hai mươi đến ba mươi năm nghiên cứu giáo lý, lĩnh vực nghiên cứu chính yếu của tôi là học các kinh văn và số hóa kinh điển Phật giáo. Tuy nhiên, cơn bệnh nầy đã đưa tôi trở về một câu hỏi căn bản: Cốt lõi của Phật pháp là gì? Có phải chăng vì thấy cảnh già, bệnh, chết mà Thái tử Sĩ-đạt-đa đã rời bỏ cung điện để đi tìm sự tự do thoát khỏi những hoạn khổ nầy?

Chỉ lúc đó, tôi mới thực sự hiểu được hai đoạn kinh văn sau đây: “Có ba sự kiện mà toàn thể thế gian không thích nghĩ đến. Ba sự kiện ấy là gì? Đó là già, bệnh và chết.” và “Chính vì có ba sự kiện trên đời người ta không thích nghĩ đến – đó là già, bệnh và chết, mà chư Phật, chư Như Lai xuất hiện trên thế gian và thế gian được biết đến giáo pháp đã được chư Phật, chư Như Lai thực chứng và truyền dạy cho chúng sinh.” Tôi hiểu sự tu tập và thực chứng nầy thật sự là cốt lõi của Phật Pháp. Một cách nào đó, bệnh tật nầy đã cho phép tôi tái khám phá lời dạy của Đức Phật.

CÁC BÀI KINH LÀ NHỮNG HỒ SƠ Y KHOA 
Lần đầu tiên tôi đọc các bài kinh giảng về bệnh tật, tôi cảm nhận mỗi bài kinh ngắn giống như hồ sơ bệnh lý thu gọn về “sự chữa trị” của bệnh nhân đang nhận giáo pháp. Trong thời gian nằm ở bệnh viện, tôi học được chút ít về cách các bác sĩ điền vào các mẫu thông tin về bệnh nhân để giúp tôi hiểu được tờ thông tin lịch sử y khoa của tôi. Tôi học được rằng các bác sĩ thường dùng khuôn mẫu SOAP khi tạo hồ sơ bệnh án cho mỗi bệnh nhân. SOAP là viết tắt của Subjective(chủ quan), Objective (khách quan), Assessment (thẩm định) và Plan (kế hoạch).

Về sau, tôi đã sử dụng mô hình SOAP nầy và tạo ra “mẫu đơn thông tin bệnh nhân” cho mỗi bài kinh về bệnh tật, với thông tin về bệnh nhân, thời gian và địa điểm thăm viếng của vị đạo sư, mô tả chủ quan về chứng bệnh của bệnh nhân, các triệu chứng quan sát được, toa thuốc trị bệnh, tiên lượng, v.v. Dùng phương pháp nầy để phân tích bài kinh giúp tôi xác định một bộ đầy đủ các pháp thực hành.

Theo kinh nghiệm của tôi, loại mô hình SOAP nầy, gần giống cấu trúc của Tứ Thánh Đế trong bài kinh mô tả Đức Phật như là một y sĩ, đặc biệt phù hợp với con người thời hiện đại. Bằng cách trình bày nội dung các bài kinh như thế, người bệnh, các bác sĩ và những người chăm sóc bệnh nhân có thể hiểu các kinh văn nầy qua một phương cách mới, giúp họ có cái nhìn tươi mới hơn về bệnh tật và cái chết. Sau khi sắp xếp, so sánh và phân tích nội dung của bộ sưu tập, tôi lập ra danh sách của những người sau đây có thể nhận được lợi lạc từ các lời dạy đó:

  • Bệnh nhân có thể dựa vào các bài kinh cho việc thực hành riêng của mình cũng như để tụng đọc;
  • Bác sĩ, người chăm sóc bệnh nhân và tu sĩ có thể dùng các bài kinh đó như là một cuốn sách tham khảo bổ sung khi tương tác với bệnh nhân;
  • Những ai còn khỏe mạnh có thể dùng các bài kinh đó như là những hướng dẫn hay khai triển dẫn nhập để thực hành hàng ngày, sửa soạn sẵn sàng đối diện với bệnh tật và cái chết.

Tóm lại, tôi tin rằng tuyển tập các bài kinh trong cuốn sách nầy đặc biệt thích hợp cho những ai có cuộc sống bận rộn và không có thì giờ để nghiên cứu sâu rộng tất cả các bài kinh. Như thế, bộ sưu tập nầy là tập sách đọc dẫn nhập rất tốt, cung cấp sự hướng dẫn quý giá để hành thiền như được trình bày trong đó.

Ý NGHĨ CUỐI CÙNG 
“Hôm nay là ngày cuối cùng trong đời tôi.” Từ khi bắt đầu bị bệnh, tôi dùng câu nói nầy như là một nguyên tắc hướng dẫn đời tôi. Tôi xem mỗi lớp học, mỗi cuộc hội họp, mỗi cuộc gặp gỡ và mỗi cuộc trò chuyện như là một buổi chia tay. Với thái độ đó, tâm trí tôi tràn ngập lòng biết ơn và trân quý sâu sắc từng khoảnh khắc. Mỗi buổi sáng giống như bắt đầu một đời sống mới: “Hôm nay là ngày đầu tiên của đời tôi.”

Đọc các bài kinh về bệnh tật sau một cuộc chạm trán gần với cái chết, tôi cảm thấy thật sự rất đáng tiếc rằng kho tàng quý báu đó từ lâu đã bị chôn sâu trong kinh điển Phật giáo. Rất ít người để ý đến các bài kinh đó và ít người hơn nữa đã thật sự sử dụng các bài kinh đó để làm hướng dẫn cho việc tu tập. Tôi tri ân ngài Tỳ-khưu Anālayo đã tận tâm phiên dịch tuyển tập các bài kinh và viết kèm theo những lời giải thích. Tôi rất hoan hỷ khi cầm được cuốn sách nầy trong tay, một cuốn sách có thể đi cùng với tôi trong cuộc hành trình cuối cùng của cuộc đời nầy.

- Aming Tu

Ghi thêm: Giáo sư Aming Tu qua đời vào tháng 11 năm 2016 (Bình Anson).


Xem đầy đủ tại đây: Sách Tỉnh Thức Trước Bệnh Tật Và Cái Chết 

NHỮNG Ý HAY CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN

- Mọi hiện hữu trên đời đều là khổ. Còn một chút hiện hữu dù chỉ như một chút đất ở đầu móng tay thì còn phải đáng gờm nhớp, ghê sợ nó. 


- Ghét là khổ. Thích cái gì cũng đều là thích trong khổ. Muốn hết khổ thì đừng ghét và đừng thích nữa. 


- Chúng sinh dù sống trong hoàn cảnh nào thì cũng giống như ở trong một ngôi nhà đang bị cháy, dù chạy xuống (đọa) hay chạy lên (thăng) cũng đều không thoát khỏi ngôi nhà đó, trừ khi thoát ra khỏi nó bằng tu tập Bát Chánh Đạo. 


- Khi đã giác ngộ Tứ đế thì người ta chỉ muốn ngồi im chờ chết mà thôi.


Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2023

TÔI ĐỌC SÁCH


Tôi không phải là một người ham đọc theo kiểu mọt sách, nhưng sớm hình thành cho mình thói quen đọc sách từ bé. Ngày bắt đầu vào lớp 1, tôi đã thích đọc những bài tập đọc trong sách giáo khoa, đọc với niềm yêu thích thật sự, chứ không phải bắt buộc, không phải vì học thuộc lòng.


Lên cấp hai tôi bắt đầu đọc báo và sang cấp ba tôi tìm đọc các cuốn tiểu thuyết tình yêu. Cuối năm lớp 9 tôi bắt đầu tập viết truyện ngắn và tập làm thơ. Hồi đó tôi chủ yếu viết về tình bạn trong sáng hồn nhiên, cùng chút tình yêu tuổi học trò mơ mộng. Những cuốn vở mới với những câu chuyện dở dang, viết xong thì đem cất dấu kỹ, vì ngại không dám cho ai đọc. 


Rồi lúc đi lính tôi vẫn giữ thói quen đọc sách đều đặn. Những lúc rảnh rỗi tôi thường lên Thư viện Quân Đoàn để tìm báo, tạp chí, truyện ngắn để đọc cho đỡ buồn, cũng là để cập nhật thông tin thời sự. Cũng thời gian này tôi làm thơ khá nhiều, khoảng 5 chục bài được viết xong lúc còn tại ngũ. Nội dung các bài thơ lúc đó chủ yếu là viết cho cô bạn gái thời học sinh cùng những suy tư về cuộc đời, về số phận con người. 


Tôi còn nhớ có bài thơ viết lên nỗi buồn của một chàng trai chính là tôi với bao khát vọng, nhưng phải giam cầm trong bốn bức tường của trạm gác vô tuyến nơi cao nguyên lộng gió. Trong khi đó bạn bè đang ngồi trên giảng đường các trường đại học. Lúc xuất ngũ tôi đã tập hợp thành một tập thơ, những dòng chữ viết tay được nắn nót rất đẹp, được đóng thành tập và trang trí khá chuyên nghiệp. Thật tiếc là về sau tôi để thất lạc mất, và sau đó tôi cũng quên sạch những gì mình đã viết ra. 


Sau này khi vào Sài Gòn làm công việc tự do, tôi vẫn giữ thói quen đọc sách, những ngày Chủ nhật vẫn đều đặn đi đến các nhà sách lớn ở các quận Gò Vấp, Bình Thạnh, Tân Bình… để tìm đọc. Thời gian này tôi chủ yếu đọc các sách tâm lý, sách hội họa. Rồi khi đi học sư phạm tôi vẫn thường lên thư viện tìm sách báo, tạp chí để đọc và cập nhật thông tin. Quãng thời gian sau này khi mới vào làm giáo viên, tôi ít đọc hơn nhưng vẫn không bỏ thói quen đọc. 


Cho đến năm 2009, khi nhà tôi nối mạng internet thì tôi có điều kiện đọc nhiều hơn, tôi đọc nhiều thể loại nhưng chủ yếu là sách tâm lý, sách khoa học và một ít sách văn chương, tiểu thuyết… 


Có lẽ thời gian tôi đọc nhiều nhất là từ năm 2013 đến nay, ước chừng có năm tôi đọc lên đến khoảng 2 vạn trang giấy, tôi không nói nhầm đâu, khoảng 20 ngàn trang giấy, tương đương với khoảng 100 cuốn sách dày mỏng khác nhau. Và thời gian về sau này tôi chủ yếu tập trung đọc sách về Phật giáo và khoa học tâm lý, đó là các sách của Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ các cuốn kinh Nguyên thủy, sách của Trưởng lão Thích Thông Lạc viết ra từ sự thực tu, thực chứng của mình, sách của các tác giả gốc Do Thái nổi tiếng chuyên nghiên cứu về lịch sử nhân loại, vân vân... 


Tôi đọc như một con nghiện sách và dần dà tôi hình thành kỹ năng nắm được nội dung các cuốn sách rất nhanh. Kỷ lục là cuốn Muôn Kiếp Nhân Sinh tập 1, sách dày hơn bốn trăm trang mà tôi chỉ đọc trong vòng khoảng 10 tiếng đồng hồ, tất nhiên là tôi nắm được nội dung từ đầu đến cuối chứ không phải chỉ đọc lướt qua. 


Với việc đọc sách như vậy nhưng cuối cùng tôi nhận ra rằng, đọc sách nhiều là rất tốt, nhưng đồng thời cũng... rất tệ. Tốt là sách đã mở ra cho tôi cả thế giới tri thức và trí tuệ từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Nếu không có sách thì chắc là tôi cũng không hơn gì con bò đâu, thật đấy. Tệ là bởi đọc sách quá nhiều nên bây giờ tôi như một người bước ra từ một thế giới khác hẳn với mọi người ấy, thậm chí tôi giống như bị hoang tưởng vậy. 


Chốt lại, cái gì quá nhiều cũng không tốt, kể cả việc đọc sách. 


Minh Bảo


Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2022

ĐIỀU CÒN LẠI CUỐI CÙNG

Cả một đời kiếm tìm, vật lộn, bon chen, tranh dành với đời… Cuối cùng ta còn lại gì? 

Một tấm thân tàn tạ, rệu rã, chờ ngày trả về cát bụi. Một tâm hồn đầy những dục vọng, khát ái, oán trách cuộc đời bạc bẽo, oán trách thời gian phủ phàng...


Cả một đời học Phật, cuối cùng còn lại gì? 


Vô thường – Vô ngã – Khổ – Không. 

Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2022

THI HỌC SINH GIỎI CHO AI?

 THI HỌC SINH GIỎI CHO AI?



Câu hỏi này có vẻ thừa, vì không cho học trò thì còn cho ai! Nhưng sự thể nhiều khi không đơn giản như thế, “nói vậy mà không phải vậy”.


Chúng ta phải trả lời mấy câu hỏi sau: (1) Ai là người tổ chức các kỳ thi học sinh giỏi và nhằm mục đích gì? (2) Ai là người được lợi nhiều nhất từ những giải học sinh giỏi ấy? (3) Ai là người khao khát mãnh liệt nhất những cái giải học sinh giỏi kia? 


Tổ chức, tất nhiên rồi, là các cơ sở giáo dục cho đến các cấp quản lý giáo dục. Để làm gì? Thoạt tiên, là để làm cơ sở đánh giá chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, theo thời gian, mục đích ấy dần bị thay thế và thay thế hoàn toàn bằng một cuộc chạy đua thành tích khốc liệt. Thi không còn là để đo đếm kết quả của quá trình giáo dục nữa mà bị biến thành nơi để tạo ra kết quả. Thi cử không thể để tạo ra kết quả, nếu có, nó sẽ là những trái cây chín ép, là những thành tích ảo do thực hiện tổng lực các biện pháp ôn luyện, nhồi nhét, thậm chí chạy điểm, chạy đề…


Đánh giá chất lượng giáo dục phải được thực hiện thường xuyên với một cách thức phong phú trong suốt quá trình học. Từ đánh giá trong nội bộ hệ thống giáo dục và đánh giá ngoài – là những phẩm chất và năng lực mà người học sở đắc được, rồi mang vào đời sống, như chính con người họ, chứ không phải chỉ là những con số nằm trên tờ giấy thi, và chấm hết.


Thi cử trong giáo dục không thể quan niệm như một trận bóng đá hay một trận boxing để tìm kiếm nhà vô địch. Không ai trong những nền giáo dục tiến bộ còn quan niệm rằng, kết quả của một lần thi sẽ dán lên học trò một cái nhãn là giỏi/dốt suốt đời. Dùng một kỳ thi để kết luận năng lực của một người học là cách tốt nhất để gây ra niềm tự hào giả tạo hoặc lòng tự ti vô cớ. Và nó sẽ lấy mất cơ hội hoàn thiện của mỗi người bằng việc ban ra một cái giấy chứng nhận. Các cấp quản lý giáo dục, vì thế, cần thay đổi tư duy đánh giá, chuyển từ cách đánh giá cũ kỹ, lạc hậu sang đánh giá một cách khoa học và mang tính giáo dục thật sự.


Một phương cách đánh giá chất lượng bằng các kỳ thi như lâu nay, tất dẫn đến những chạy đua thành tích. Vì thành tích lúc này đồng với danh dự, đồng với năng lực, đồng với phẩm chất, và đồng với sự sống còn của các cá nhân có liên quan hữu cơ: giám đốc sở, trưởng phòng, hiệu trưởng, giáo viên, học sinh… Cấp càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Và cái trách nhiệm ấy được bổ đều xuống các cấp thấp hơn. Cứ thế, chúng dồn hết lên đầu những “người lính” trực tiếp ra trận: là học sinh.

*

Như thế, áp lực lớn nhất và cuối cùng là học sinh, vì các em phải gánh toàn bộ cái gánh nặng khủng khiếp trên vai – gánh giám đốc sở, gánh trưởng phòng, gánh thầy cô giáo, thậm chí gánh cả gia đình, họ tộc, làng xóm.


Đó là một sức nén tâm lý ghê gớm có thể phá hủy thế giới tinh thần lành mạnh của người học. Khi một học sinh của chúng tôi trượt trong kỳ thi Olimpic 30/4 ở phía Nam, em ấy đã bỏ ăn nhiều ngày và tự nhốt mình trong phòng, không tiếp xức với bất kỳ ai… Đó là một hiện tượng quái dị trong nền giáo dục: biến một trải nghiệm tri thức trong quá trình trưởng thành thành một cuộc đấu thành bại, sinh tử. Và thực tế, không ít lần chúng ta đã phải đau đớn chứng kiến những cái chết thương tâm của tuổi hoa ngay trên sân trường của các em bằng một cú nhảy lầu oan nghiệt sau một kỳ thi “thất bại”.

*

Áp lực lớn nhất thì học sinh gánh chịu, nhưng lợi thì ai hưởng? Tất nhiên không phải là các em! Học sinh đoạt giải, ngoài một chiếc giấy khen và chút tiền thưởng tượng trưng thì phần còn lại chủ yếu là một cái danh. Chỉ có thế. Những ưu đãi dành cho học sinh giỏi quốc gia cũng thu hẹp dần: không được tuyển thẳng vào các trường lớn như trước nữa.


Khi một trường có nhiều giải học sinh giỏi, đặc biệt là học sinh giỏi quốc gia thì hiệu trưởng của trường ấy sẽ ưỡn ngực bước đi. Đó là danh hiệu một nhà quản lý giáo dục đại tài, một chiến lược gia tầm cỡ, một người mẫn cán và làm nên kỳ tích. Người ấy sẽ được trọng dụng, ưu ái, được cất nhắc…; bằng không thì sự nghiệp lẹt đẹt.


Chính vì thế, việc hiệu trưởng dành tổng lực cho các giải học sinh giỏi là điều bình thường và gần như tất yếu, từ nhân lực, tài chính, thời gian đến quan hệ. Nó gây ra một không khí căng thẳng trong môi trường sư phạm bởi những sức ép, bởi sự dọa nạt, bởi hăm dọa thi đua. Nó biến trường học và các trường học thành một cuộc chiến trường kỳ mà tất cả đều là “chiến sĩ” buộc phải “tham chiến” để mang thành tích về cho trường (mà thực chất là cho hiệu trưởng).


Hiệu trưởng không phải là người trực tiếp dạy học, tất cả quá trình “nấu sử sôi kinh” đầy áp lực và khổ nhọc kia là của thầy cô và học trò đội tuyển. Nhưng cái mà họ nhận được chỉ là một cảm giác an toàn và nhiều ảo ảnh nếu (không thất bại); bao nhiêu thành tích đều nhờ sự lãnh đạo tài tình của hiệu trưởng! Đó là một sự bất công, cái bất công không mang lại ý nghĩa gì cho sự tiến bộ của giáo dục nước nhà, mà chỉ mang tới danh lợi cho một thiểu số làm công tác quản lý.

*

Chỉ khi nào không dùng kết quả các kỳ thi học sinh giỏi để làm thước đo giáo dục nữa thì những vấn nạn trên mới bị phá bỏ. Cởi trói cho giáo dục, trước tiên là phải cởi trói khỏi các kỳ thi nặng bệnh thành tích có tính dán nhãn này.

Người ta giỏi là vì học, chứ không phải vì thi. Mà cái học ấy phải là học bởi động cơ yêu thích, đam mê; học bởi sự kích thích của tư duy phản biện và ý thức tìm kiếm sự thật, chứ không phải bởi những cái giải đầy áp lực bị động. Một sự vẫy gọi từ những cái giải như thế chỉ khiến con người tăng trưởng lòng tham, sự háo danh và nỗi sợ hãi. Nó gián tiếp hủy hoại lòng hiếu tri và sự trong sáng của tình yêu tri thức.


Những kỳ thi như đã và đang được tiến hành, đáng lo thay, ngày càng đưa con người xa rời mục đích chân chính của giáo dục: là hoàn thiện nhân cách. 


Và, nó không thể được tiếp tục!


THÁI HẠO

Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2022

KHI TRONG NHÀ CÓ NGƯỜI MẤT

TRONG NHÀ CÓ NGƯỜI CHẾT, CHÚNG TA CẦN PHẢI HIỂU VÀ ÁP DỤNG, NHƯ THẾ NÀO, CHO ĐÚNG LỜI PHẬT DẠY:


Khi đã hiểu rõ Phật pháp, như lời Phật đã dạy, nếu trong nhà có người chết, chúng ta hãy làm lễ an táng đơn giản, không kèn, không trống, không thầy chùa tụng kinh, niệm Phật, cũng không ai hộ niệm cho ai cả. Hãy tiếp tay với gia đình có người chết, đồng lo chôn cất hoặc thiêu đốt càng sớm càng tốt, để lâu mùi hơi hôi thúi làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống của con người.


Khi trong nhà có người chết, ta nên tổ chức đám ma âm thầm, lặng lẽ, để hồi tưởng lại những công ơn, khi người còn sống. Việc ma chay cần phải bỏ bớt, đơn giản, để người sống khỏi lo lắng nhiều, những việc cúng bái có tính cách mê tín, dị đoan thì cần dẹp sạch, cốt sao cho giản dị nhất, khi đám tang xong không nợ nần ai hết.


Tẩm liệm thây người chết đừng cột bó như đòn bánh Tét. Hãy để người chết nằm trong quan tài như người nằm ngủ, phủ vải lại nhẹ nhàng, đừng chèn nhét rơm rạ như ép dầu, rồi đậy nắp áo quan lại một cách giản dị, tự nhiên, v.v... Bạn bè, thân quyến đến phúng điếu chia buồn, chẳng nên làm ầm ĩ, đánh trống thổi kèn làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh, không đúng cách đám ma, mà còn làm hao tốn tiền bạc vô ích.


Một đám tang trong âm thầm, lặng lẽ, trang nghiêm có ý nghĩa của sự chết hơn là một đám tang ầm ĩ kèn trống, tiếng hò hét, tụng niệm giọng cao, giọng thấp trầm bổng như ca, ngâm, vịnh, hát. Thể hiện những điều này không đúng cách đám ma, mà là một đám hát, một trò chơi của những người không có sự ưu sầu. Vì người chết không thể sống lại được, dù để bao lâu cũng không sống, tốt hơn ta nên an táng sớm chừng nào tốt chừng nấy, để giữ vệ sinh chung cho mọi người, nhất là những người thân trong gia đình, và còn lo những việc khác nữa. Phật dạy, thân người bất tịnh hôi thúi, do bốn đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành, nên khi chết đất, nước, gió, lửa tan rã, đất trở về đất, nước trở về nước, gió trở về gió, lửa trở về lửa; thọ, tưởng, hành, thức thì tan biến theo nghiệp lực nhân quả, người chết chẳng còn một chút xíu nào cả.


TL Thích Thông Lạc