Thứ Ba, 21 tháng 9, 2021

Có mấy loại mạn trong Phật giáo?

Có mấy loại mạn trong Phật giáo?



Hỏi: Kính bạch thầy, con thường nghe quý thầy giảng pháp hay đề cập đến vấn đề ngã mạn. Ý nghĩa của hai chữ ngã mạn thì con biết sơ qua, nhưng ngoài ra, con không biết còn có những loại mạn nào khác nữa không? Nếu có, thì xin thầy hoan hỷ nêu ra và giải thích cho con được hiểu. Con kính trọng ơn thầy.

Đáp: Trong kinh điển Phật giáo thường nêu ra có bảy loại mạn: 1. Mạn, 2. Quá mạn. 3. Mạn quá mạn. 4. Tăng thượng mạn. 5. Tà mạn.  6. Ty liệt mạn. 7. Ngã mạn.

Trong quyển Hán Việt Tự Điển của cụ Thiều Chửu giải thích chữ mạn có nghĩa là tràn đầy, buông tuồng không tự kiềm chế, gọi là tản mạn.

1. Mạn: Mình bằng người ta mà cho rằng mình hơn người ta. Hoặc người ta hơn mình mà mình cho người đó thua mình. Tâm lý này đều gọi là mạn.

2. Quá mạn: Mình thua kém người ta ở một phương diện nào đó, nhưng mình vẫn không chịu thua và còn cho mình là bằng người ta. Hoặc giả trình độ hiểu biết của mình ngang hàng người ta mà mình vẫn tự hào cho rằng mình hiểu biết hơn người ta. Nghĩa là lúc nào mình cũng nâng cao mình lên hơn người một bậc, đó gọi là Quá mạn.

3. Mạn quá mạn: Hạng người này lúc nào cũng tự cho mình là hơn người. Tự cho mình tài giỏi hơn người đến hai bậc. Do ỷ mình như thế nên sinh tâm khinh thường người khác. Hạng người này gọi là Mạn quá mạn.

4. Tăng thượng mạn: Hạng người này mới được một ít cho là đủ. Họ là hạng người luôn luôn tự mãn không bao giờ chịu học hỏi với ai. Thậm chí họ tu hành chẳng ra chi, mà cứ tự hào khoe khoang với mọi người là họ đã ngộ như thế này và chứng quả như thế kia. Họ chỉ là một kẻ phàm phu tục tử vậy mà dám cả gan tự xưng mình là chứng Thánh. Đây là hạng người Tăng thượng mạn vậy.

5. Tà mạn: Những hạng người mang nặng hạt giống ngoại đạo, hành theo tà đạo rồi chấp vào định kiến của mình mà chê bai kích bác người khác, dù người đó đang thật hành đúng theo chánh lý. Do bảo thủ tư kiến của mình mà họ rơi vào con đường tà kiến khi nào không hay biết. Họ tự cho họ là người sống đúng theo chân lý, nhưng thực tế họ là người đang thật hành theo tà đạo. Họ chấp chặt vào tà nhân, tà quả, rồi tự thị vào tà nhân, tà quả đó mà khinh thường những người khác. Đó là hạng người tà mạn.

6. Ty liệt mạn: Hạng người này dù thua thấp kém hơn người rất nhiều, nhưng họ vẫn tự thị cho họ là thua kém chút ít thôi. Có đôi khi họ tự biết là mình thấp hèn, nhưng vẫn cứ bảo thủ không chịu phục tùng học hỏi với bất cứ ai. Hạng người này thật là đáng thương hơn đáng trách.

7. Ngã mạn: Tâm lý ngã mạn này hầu hết không một ai tránh khỏi. Chỉ có thể khác nhau trên cường độ bảo thủ chấp ngã và ngã sở nặng hay nhẹ mà thôi. Mọi sự khổ đau của nhân loại, gốc cũng từ nơi chấp ngã này mà ra. Vì chấp ngã nên không chịu khuất phục thua sút ai. Từ đó gây ra biết bao thảm trạng chiến tranh sát hại lẫn nhau không chút gớm tay. Dù ở địa vị nào, ở trình độ nào, con người luôn luôn là bảo thủ chấp ngã. Ai cũng thấy mình là cái rốn của vũ trụ nên không cho ai có quyền vượt trội hơn mình. Kẻ nào hơn mình là kẻ đó phải chết. Ai cũng tự cao tự đại như thế, cho nên cái ngã này phải đụng với ngã kia. Vì mãi đụng nhau như thế thì thử hỏi nhân loại làm sao có thể sống chung hòa bình cho được? Do vì không hiểu được chân lý vô ngã nên nhân loại mới gây ra biết bao thù hận, đấu đá,chém giết lẫn nhau. Tranh chấp sát hại, hẹp thì từ cá nhân với cá nhân, rộng hơn một chút thì từ đoàn thể với đoàn thể, và rộng ra là cả thế giới, tất cả cũng chỉ vì chấp ngã mà ra. Cho nên cái tâm lý ngã mạn này rất là độc hại. Người có chí thiết tu hành thì diệt trừ được lòng ngã mạn chút ít. Bởi do vô minh si mê nên mới chấp ngã, chấp pháp. Thế gian bị điên đảo đại loạn bất an và con người luôn bị khổ đau trong vòng sinh tử, tất cả cũng bởi do hai chữ chấp ngã này mà ra.

Khi biết rõ tai hại của bảy loại mạn nói trên để từ đó chúng ta cố gắng quán chiếu thật sâu biết rõ hành tướng của mỗi loại tâm lý này hầu để tìm cách chuyển hóa chúng. Có thế thì đời ta mới hết khổ đau vậy.

Thích Phước Thái



Nakulapita-Sutta: Kinh về Tuổi già và sự Sáng suốt

 Nakulapita-Sutta

 Kinh về Tuổi già và sự Sáng suốt

 

Hoang Phong

 

Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổi và thường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức Phật và Đức Phật cũng xem ông như một người con của mình. Mỗi khi Đức Phật đến vùng Bhagga thì thường hay ghé thăm ông, hoặc mỗi khi Nakulapita nghe tin Đức Phật sắp đi ngang vùng mình ở thì đều tìm đủ cách để gặp Ngài. Các cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Nakulapita đã lưu lại cho chúng ta nhiều bản kinh. Sau đây là một trong số các kinh ấy, với những lời dạy của Đức Phật về tuổi già và sự sáng suốt tâm thần. 

Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch trực tiếp từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna (Les Entretiens du Bouddha, nxb Seuil, 2001) và hai bản dịch khác từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh: một của Thanissaro Bhikkhu và Bhikkhu Ñanananda (Samyutta Nikaya An Anthology, Sn 22.1, 2007-2011), và một của Pya Tan (Samyutta Nikaya, The Connected Sayings of the Buddha, by Piya Tan, 2006). 

***** 

"Tôi từng được nghe như thế này: Có một lần Đấng Thế Tôn ngụ với các người dân vùng Bhagga, tại hang Bhesakala nơi rừng Lộc Uyển, gần một nơi gọi là Samsumaragiri. 

Trong dịp này và vào một hôm, người chủ gia đình Nakulapita thân hành tìm Đấng Thế Tôn để viếng thăm. Nakulapita tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi đã ngồi sang một bên liền cất lời như sau: 

"Bạch Thế Tôn, con quả là một người đã kiệt quệ, già nua, một người đã trọng tuổi; thân xác bệnh tật, lắm khi thật đau đớn. Hơn nữa, không mấy khi con được dịp gặp Đấng Thế Tôn hoặc các đồ đệ của Ngài đã từng tu tập về các phương pháp thăng tiến tâm linh (có nghĩa là không có mấy dịp để được học hỏi). Con xin Ngài ban cho con những lời khuyên bảo, ban cho con những lời chỉ dạy cần thiết giúp con tìm thấy an vui lâu dài".

Đức Phật bèn cất lời như sau: 

Thật thế, này người chủ gia đình, quả đúng như thế. Thân xác của con đã yếu, lưng đã còng. Khi đã mang một thân xác như thế mà cứ muốn có một sức khoẻ tốt dù chỉ tạm thời thì đấy quả thật là một ước vọng điên rồ. Vì thế, này ngưòi chủ gia đình, con phải luyện tập [bằng cách nhắc nhở mình] như thế này: 'Dù thân xác tôi yếu đau, thế nhưng tâm thần tôi không bệnh tật gì'. Đấy là cách mà con phải cố gắng luyện tập"

Người chủ gia đình hân hoan đón nhận lời chỉ dạy của Đấng Thế Tôn, tạ ơn Đấng Thế Tôn, sau đó kính cẩn đi một vòng chung quanh nơi Ngài đang ngồi rồi ra đi. Sau đó Nakulapita tìm gặp Vị Tôn Kính Xá Lợi Phất (trong nguyên bản là Ayasmanta Sariputta, chữ Ayasmanta có thể tạm dịch là Vị Tôn Kính hay Vị Đáng Kính, và đặc biệt chữ này trong kinh sách Pa-li chỉ được dùng để chỉ các vị đệ tử trực tiếp của Đức Phật). Nakulapita tiến đến gần rồi ngồi sang một bên. Vị Tôn Kính Xá Lợi Phất bèn hỏi Nakulapita : 

"Này người chủ gia đình, sao [tôi thấy] các giác cảm của ông hôm nay lại có vẻ an bình và tinh khiết đến thế. Dung nhan của ông thật sáng lạn. Có lẽ ông vừa mới được Đấng Thế Tôn giảng cho giáo lý, có phải thế không?"

Người chủ gia đình Nakulapita đáp lại như sau:

"Thưa Vị Tôn Kính, quả đúng là như thế. Tôi được Đấng Thế Tôn rưới xuống cho tôi tinh hoa của giáo lý"

Này người chủ gia đình, hãy nói cho tôi biết tại sao ông lại được Đấng Thế Tôn rưới xuống cho ông tinh hoa của giáo lý như thế? 

Thưa Vị Tôn Kính, hôm nay tôi đến viếng Đấng Thế Tôn. Tôi tiến đến gần Ngài, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi đã ngồi sang một bên, tôi cất lời như sau: "Bạch Thế Tôn, con quả là một người đã kiệt quệ [...], lắm khi thật đau đớn, [...]và Đấng Thế Tôn bảo rằng: 'Thật thế, này người chủ gia đình, quả đúng như thế. Thân xác của con đã yếu lắm.[...] Vì thế, này người chủ gia đình, con phải luyện tập như thế này: 'Dù thân xác tôi yếu đau, thế nhưng tâm thần tôi không bệnh tật gì. Đấy là cách mà con phải luyện tập'. Ngài nói với tôi như thế

Này người chủ gia đình, thế sao ông lại không nghĩ đến là cần phải hỏi thêm Đấng Thế Tôn như thế này: 'Bạch Thế Tôn, xin Ngài chỉ dạy thêm là bằng cách thức như thế nào để tâm thần không bị bệnh tật, trong khi thân xác phải gánh chịu ốm đau?' 

Thật thế, Thưa Vị Tôn Kính, tôi từ xa đến đây để gặp ngài chính là để được nghe ngài giảng giải cho về ý nghĩa thật sự trong lời dạy của Đấng Thế Tôn. Thật không gì bằng được chính ngài Xá Lợi Phất giải thích cho tôi ý nghĩa trong lời chỉ dạy mà Đấng Thế Tôn đã ban cho tôi

Vậy thì, này người chủ gia đình, hãy cố gắng chú tâm và lắng nghe nhé. Tôi sẽ giải thích cho ông điều ấy

Vị Tôn Kính Xá Lợi Phất cất lời như sau: 

Trước hết này người chủ gia đình, [cần phải hiểu] tại sao thân xác và tâm thần lại bị mọi thứ bị bệnh tật. Một người thường tình (tiếng Pa-li là puthujjana, có nghĩa là một người không hiểu biết gì về Đạo Pháp, M. Wijayaratna dùng nguyên chữ này và không dịch) tức không được hưởng sự giáo huấn nào (trong nguyên bản là assutava puthujjano, có nghĩa là những người chất phác, vì vào thời bấy giờ không mấy người được học hành và có cái may mắn được tu tập), không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, không đủ khả năng hấp thụ những lời giáo huấn của các bậc cao quý, không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi các vị hiền nhân, không hề bị thu hút bởi sự giáo huấn của những bậc hiền nhân, người này xem hình tướng vật chất (rûpa) là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã chính là hình tướng vật chất. [Để rồi] tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là hình tướng vật chất' hoặc tự nghĩ rằng: 'Hình tướng vật chất chính là của tôi', và cứ yên trí là như thế. Đến lúc cái hình tướng vật chất ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà hình tướng vật chất trở thành khác đi, thì nơi hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc. 

"Và hơn thế nữa, này người chủ gia đình, con người thường tình (puthujjana) ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, [...] xem giác cảm (vedanâ) là cái Ngã, hoặc là xem cái Ngã hàm chứa giác cảm, hoặc cái Ngã chính là giác cảm, hoặc cái Ngã nằm bên trong giác cảm. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là giác cảm' hoặc tự nghĩ rằng: 'Giác cảm chính là của tôi', và cứ yên trí như thế. Đến lúc các giác cảm ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà các giác cảm trở thành khác đi, thì nơi con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc. 

"Và hơn thế nữa, này người chủ gia đình, con người thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, [...] xem sự nhận thức (sanna) là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã hàm chứa sự nhận thức, hoặc cái Ngã chính là sự nhận thức, hoặc cái Ngã nằm bên trong sự nhận thức. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là sự nhận thức', hoặc tự nghĩ rằng: 'Sự nhận thức chính là của tôi', và cứ yên trí như thế. Đến lúc sự nhận thức ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà sự nhận thức trở thành khác đi, thì từ nơi con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc. 

"Và hơn thế nữa, này người chủ gia đình, con người thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, [...] xem các thành phần cấu hợp duy ý (sự chủ tâm hay các tác ý - sankhâra - còn gọi là hành uẩnlà cái Ngã, hoặc xem cái Ngã hàm chứa sự các thành phần cấu hợp duy ý, hoặc cái Ngã chính là các thành phần cấu hợp duy ý, hoặc cái Ngã nằm bên trong các thành phần cấu hợp duy ý. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là các thành phần cấu hợp duy ý', hoặc tự nghĩ rằng: 'Các thành phần cấu hợp duy ý là của tôi', và cứ yên trí như thế. Đến lúc các thành phần cấu hợp duy ý biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà các thành phần cấu hợp duy ý trở thành khác đi, thì nơi con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc. 

"Và hơn thế nữa, này người chủ gia đình, con người thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ sức nhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, [...] xem tri thức (vinnâna - consciousness) là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã hàm chứa tri thức, hoặc cái Ngã chính là tri thức, hoặc cái Ngã nằm bên trong tri thức. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là tri thức', hoặc tự nghĩ rằng: 'Tri thức chính là của tôi', và cứ yên trí như thế. Đến lúc cái tri thức ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà cái tri thức ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, chính đấy là cách mà thân xác và tâm thần trở nên bệnh hoạn. Vậy đến đây chúng ta thử xét xem phải làm thế nào để giúp cho tâm thần tránh khỏi không bị bệnh hoạn, trong khi thân xác phải chịu mọi ốm đau. Một người đệ tử cao quý được hưởng sự giáo huấn (sutavâ arya-savâko) quý trọng những bậc cao quý, noi theo giáo huấn của những bậc cao quý, được giáo huấn bởi những bậc cao quý, ngưỡng mộ các vị hiền nhân, noi theo sự giáo huấn của các vị hiền nhân, được giáo huấn bởi các vị hiền nhân, hắn sẽ không xem hình tướng vật chất là cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là hình tướng vật chất. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là hình tướng vật chất' hay là 'hình tướng vật chất là của tôi', và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc cái hình tướng vật chất ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà cái hình tướng vật chất ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn sẽ không xảy ra sự ta thán, [...], và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, người đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, [...], sẽ không xem giác cảm là cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là giác cảm. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là giác cảm' hay là 'giác cảm chính là của tôi', và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc các giác cảm biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà các giác cảm trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán, [...], và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, người đệ tử cao quý được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, [...], sẽ không xem sự nhận thức là cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là sự nhận thức . Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là sự nhận thức' hay là 'sự nhận thức chính là của tôi', và hắn không hề bám vào các ý nghĩ ấy. Đến lúc sự nhận thức ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà sự nhận thức ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán, [...], và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, người đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, [...], sẽ không xem các cấu hợp duy ý là cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là các cấu hợp duy ý. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là các cấu hợp duy ý' hay là 'các cấu hợp duy ý chính là của tôi', và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc các cấu hợp duy ý ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà các cấu hợp duy ý trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán, [...], và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, người đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, [...], sẽ không xem tri thức là cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là tri thức. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: 'Tôi chính là tri thức' hay là 'tri thức chính là của tôi', và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc cái tri thức ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chất vô thường, tức là lúc mà cái tri thức ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán, [...], và bực dọc. 

"Này người chủ gia đình, đấy chính là cách giữ cho tâm thần không bệnh hoạn, trong khi thân xác phải chịu mọi thứ ốm đau". 

Vị Tôn Kính Xá Lợi Phất đã giảng như thế. Người chủ gia đình Nakulapita thật sung sướng và cảm thấy hân hoan trước những lời giải thích của Vị Tôn Kính Xá Lợi Phất. 

*****

 

Vài lời góp ý

 

Trên phương diện hình thức thì đây là một bản kinh trọn vẹn và đầy đủ, tức gồm phần mở đầu và cả phần chấm dứt: phần mở đầu cho biết về bối cảnh hình thành của bài kinh và phần chấm dứt là hiệu quả của bài kinh đối với người được nghe. Tương tự như hầu hết các bản kinh Tạng khác, mỗi câu kinh được lập đi lập lại nhiều lần và chỉ thay đổi một hay hai chữ, có thể đấy là cách giúp để dễ nhớ, dễ học thuộc lòng và nhất là giữ cho câu kinh ít bị sai lạc. Nhờ vào cách lập đi lập lại bất tận đó mà các câu kinh được lưu truyền sau hàng nhiều trăm năm bằng cách truyền khẩu và sau đó là hàng ngàn năm bằng cách ghi chép, thế mà vẫn giữ được sự mạch lạc và chính xác một cách thật tuyệt vời, bởi vì nếu có một câu nào nhớ lầm (trong giai đoạn truyền khẩu) hay có một chữ viết sai (trong giai đoạn ghi chép) thì đã có một câu khác tương tự để chỉnh lại. 

Nakulapita là tên gọi thân mật của một người lớn tuổi. Một số học giả, trong số này có Pya Tan và Môhan Wijayaratna, đã viết chữ này rời ra thành hai chữ là Nakula-pitâ. Chữ pitâ có nghĩa là "bố" (cha) và Nakula-pitâ thì có nghĩa "bố Nakula", và vợ của người này mang tên là Nakulamata (Nakula-matâ) có nghĩa là "mẹ Nakula". Trong các bản kinh Nakulapita, Đức Phật cũng đã gọi các nhân vật vừa kể bằng các tên thân mật của họ. Chi tiết này chứng tỏ cho thấy một vài nét thật "chân tình", "nhân bản" và thật gần gũi với con người trong các kinh sách Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong khi đó thì Đại Thừa Phật Giáo phát triển sau đó có xu hướng chủ trương Phật Giáo là một tôn giáo như những tôn giáo khác vào thời bấy giờ, và nâng Đức Phật lên một cấp bậc tối thượng và thiêng liêng, đồng thời khai triển thêm một số khía cạnh trong giáo lý, nêu lên khái niệm về người bồ-tát và hình dung ra vô số các vị thần linh và các vị Phật khác. 

Ngoài ra còn một chi tiết khác cũng đáng để chú ý là Đức Phật đã giải đáp thắc mắc của Nakulapita bằng một câu giảng thật trực tiếp nhưng rất bao quát và sau đó thì Xá Lợi Phất mới giảng giải thêm cho ông ta một cách chi tiết hơn, cả về nội dung cũng như về phép thực hành. Đây cũng là một hình thức trình bày thường thấy trong kinh sách, tức là Đức Phật chỉ nêu lên chủ đề và các đệ tử của Ngài đứng ra thuyết giảng. Thí dụ như trường hợp của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong kinh này Đức Phật ngồi một bên, lắng sâu vào thiền định và đã cảm ứng cho Quán thế Âm thuyết giảng bản Tâm Kinh cho Xá Lợi Phất.  

Trên phương diện nội dung thì kinh Nakulapita trên đây sử dụng hai khái niệm căn bản của giáo lý là Ngũ Uẩn và Vô Ngã để phân tích và chữa trị tâm thức bệnh hoạn của những người lớn tuổi. Thật vậy bệnh tật và các dấu hiệu già nua trên thân xác đôi khi có thể nhận biết khá dễ dàng, không cần phải khám nghiệm y khoa, thế nhưng khi bệnh tật và các dấu hiệu già nua xuất hiện trong tâm thức thì rất khó để nhận biết hơn.  

Thí dụ như nếu bị lãng tai, ta nói chuyện oang oang mà không ý thức được là ta nói quá lớn tiếng, hoặc ta mở máy truyền hình quá to làm phiền người khác mà không hay biết. Đấy là trường hợp giác cảm bị suy thoái (bệnh tật) vì già nua, tiêu biểu cho uẩn thứ nhất gọi là Thụ (vedanâ).  

Trời vừa nhá nhem tối là ta đã lo cài cửa, trong lòng lo sợ, đem đặt bên cạnh giường một cái gậy hay một con dao, khi nghe thấy một tiếng động là tưởng tượng ra có ma hay một tên trộm lẻn vào nhà... Đấy là sự vận hành của uẩn thứ ba gọi là Tưởng (sanna), tức có nghĩa là sự cảm nhận hay nhận biết xuyên qua trung gian của một giác quan về một xúc cảm hay một khái niệm nào đó hiển hiện ra trong đầu, tức là một sự kiện nào đó mà ta đã có kinh nghiệm từ trước (tác động của nghiệp). Đấy là một thứ bệnh hoạn của người già nua gây ra bởi uẩn thứ ba.  

Khi hình ảnh con ma hay tên trộm hiện ra trong đầu, ta vừa run bần bật vừa với cây gậy để sẵn sàng tự vệ, ấy là sự vận hành của uẩn thứ tư gọi là Hành (sankhâra). Hành là "các nhân tố kết hợp" hay "sức mạnh thúc đẩy" để tạo ra nghiệp. Tuy rằng ta chưa kịp khua chiếc gậy để đuổi ma hay đập lên đầu tên trộm, thế nhưng nghiệp cũng đã hình thành, bởi vì nghiệp là một ý định, một chủ đính, một tác ý... phát sinh trong đầu. Bản kinh Nakulapita trên đây gọi "sức mạnh thúc đẩy" ấy là "các cấu hợp duy ý". Nghiệp phát sinh từ các tác ý hay các cấu hợp duy ý đó sẽ tác động ngay tức khắc và tạo ra một bầu không khí lo âu, căng thẳng, sợ sệt và bệnh hoạn nơi người già nua không hề biết tu tập (assutava puthujjano).  

Đối với uẩn thứ năm gọi là Thức (vinnâna) tức là tri thức, thì xin đưa ra một thí dụ "vui vẻ" hơn. Ta chuẩn bị đi ra ngoài, thay quần áo, đội mũ lên đầu, tìm đôi giày, ngồi vào ghế và cúi xuống loay hoay buộc dây giày..., sau đó thì cầm chìa khóa và mở cửa định bước ra ngoài. Tuy nhiên chưa kịp bước ra ngoài thì lại thấy trời có gió và khá rét, ta vội quay vào đi tìm cái mũ để đội. Tìm mãi không thấy cái mũ đâu cả, ta bực bội, khó chịu, tự hỏi không biết có bỏ quên cái mũ ở nhà ai không, hay có ai dọn dẹp nhà cửa đem cất nó vào xó nào mà ta tìm không thấy. May mà không có ai ở nhà lúc ấy nếu không thì ta đã mắng cho một trận. Đấy là sự vận hành của tri thức đã suy thoái với tuổi tác và của nghiệp tạo ra bởi sự suy thoái đó (có ý định mắng một trận). Tri thức (consciousness) hay uẩn thứ năm tượng trưng cho sự kết hợp tất cả các "thông tin" phát sinh từ các uẩn khác (thân xác, giác cảm, nhận thức, diễn đạt) để phối kiểm và tạo ra một sự hiểu biết mạch lạc. Thế nhưng trong trường hợp của một người lớn tuổi thì sự phối kiểm ấy lại trở nên thiếu mạch lạc và chính xác (đi tìm cái mũ mà không biết là chính mình đang đội trên đầu). 

Bài kinh trên đây dạy rằng "lãng tai" (giác cảm) không phải là cái Ngã hay là cái của tôi, "nhận biết một tiếng động và ngỡ đấy là con ma hay tên trộm" (sự nhận thức hay diễn đạt) không phải là cái Ngã hay cái của tôi, "sẵn sàng vung gậy để đuổi ma hay để đập lên đầu tên trộm" (tác ý) không phải là cái Ngã, cũng không phải là cái của tôi, đi "tìm cái mũ đang đội trên đầu (tâm thức xao lãng) và phát lộ sự bực dọc" không phải là cái Ngã, cũng không phải là cái của tôi. Đấy chỉ là sự vận hành của bốn uẩn thuộc tâm thức làm phát sinh ra các thứ xúc cảm và các tác ý trong tâm thức, chúng có thể phát hiện thành ngôn từ hay hành động trên thân xác. Nếu chúng ta xem chúng là cái Ngã hay những biểu hiện của cái Ngã thì đấy là cách tạo ra mọi thứ bệnh hoạn cho tâm thần. 

Tóm lại, rất dễ để nhìn thấy sự suy thoái của cơ thể và bệnh tật trên thân xác phát sinh khi tuổi già đã đến, thế nhưng lại rất khó cho ta để chận đứng quá trình ấy của sự già nua trên thân xác. Trái lại đối với tâm thức thì lại rất khó để nhìn thấy những thứ bệnh tật tâm thần, bởi vì vô minh hiển hiện qua bóng dáng của cái Ngã luôn tìm cách che đậy chúng để đánh lừa ta, thế nhưng những thứ bệnh tật tâm thần ấy lại có thể chữa khỏi được bằng những liều thuốc của giác ngộ. 

Thân xác và tâm thức tương tác với nhau một cách thật chặt chẽ, một thân xác khoẻ mạnh là một trong các điều kiện thuận lợi giúp mang lại một tâm thức an vui, và một tâm thức lành mạnh luôn góp phần không nhỏ để tạo ra một thân xác đủ sức đứng thẳng trên đôi chân của nó. Tuy thế, tâm thức và thân xác hàm chứa một số đặc tính và khả năng rất khác biệt nhau. Thí dụ một lực sĩ phải luôn luôn luyện tập mới giữ được các thành tích mà mình đã đạt được, sau đó vì tuổi tác hay kém luyện tập thì các thành tích ấy không còn giữ được nữa. Thế nhưng sự hiểu biết, ngoại trừ những sự hiểu biết sai lầm, sẽ không bao giờ thụt lùi, tuy rằng sự hiểu biết đó vẫn phải lệ thuộc vào thân xác như một cơ sở chuyển tải. Khi nào cơ sở đó bị thoái hóa nặng nề hay hoàn toàn suy sụp thì khi đó sự hiểu biết đã đạt được từ trước mới bị lôi kéo theo.  

Bài kinh trên đây dạy cho chúng ta phải làm thế nào để duy trì được một thể dạng tâm thần lành mạnh, sáng suốt, không bệnh hoạn cho đến lúc thân xác hoàn toàn bị hư hoại. Thế nhưng muốn đạt được một thể dạng tâm thần tinh khiết và an vui thì phải luyện tập trước khi tuổi già kéo đến, tức phải lấy đà khi thân xác còn đứng vững. Không nên chờ đến lúc tuổi cao, khi mà lo sợ, hận thù, hoang mang, hối tiếc, oán hờn... đã tràn ngập trong tâm thức, thì khi đó mới nghĩ đến các phương pháp luyện tập trí nhớ, chú ý đến việc ăn uống dưỡng sinh, lo tập thể dục, múa tài chi, khí công..., và mỗi đêm uống thuốc an thần trước khi lên giường. 

Bài kinh trên đây là một liều thuốc cực mạnh, không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bình và trong sáng. Thiết nghĩ bài kinh là một liều thuốc thật triệt để, giúp loại bỏ vô minh để quán thấy bản chất Vô Ngã của một cá thể. Thế nhưng tiếc thay liều thuốc cũng thật là khó nuốt, bởi vì các khái niệm về vô ngã và ngũ uẩn không dễ để thấu triệt và đem ra áp dụng. Dầu sao đi nữa nếu chỉ loại được một phần nào ý nghĩ sai lầm về sự hiện hữu của cái Ngã thì biết đâu việc này cũng đủ để giúp cho chúng ta giữ được sự thanh thản trong lúc ốm đau đang hành hạ thân xác, và tìm thấy một niềm an vui trong lúc tuổi già.

 

Bures-Sur-Yvette, 16.11.11

Hoang Phong

 

 

Tóm lại:

 

Muốn thoát khổ thì phải nhận thức rõ Ngũ uẩn là vô thường, là vô ngã, tức không có gì trường tồn, không có gì vĩnh viễn, không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. 

Tóm tắt 12 cánh cửa dẫn đến thất bại của một kiếp người

 Tóm tắt 12 cánh cửa dẫn đến thất bại của một kiếp người

1. Thù ghét, coi thường đạo lý.
2. Ưa mến kẻ ác, giao du với kẻ ác.
3. Ham ngủ, thụ động, lười nhác, thích giao du hội họp, tính hay phẫn nộ.
4. Không giúp đỡ mẹ cha, người già về mọi thứ.
5. Nói dối đối với những người tu hành chân chính, người lương thiện.
6. Giàu có mà không chia sẻ, hưởng thụ một mình.
7. Tự hào về mình (sức khoẻ, sắc đẹp, giàu có…) và khinh miệt người khác.
8. Say đắm tửu sắc, cờ bạc, hoang phí tiền của.
9. Hoang dâm, tà dâm với vợ người.
10. Cưới vợ trẻ tuổi, hay ghen tuông.
11. Có địa vị quyền thế, ham mê rượu chè.
12. Tham vọng quyền uy, ham mê của cải vật chất.
Nếu ai được sinh trong gia đình vua chúa hay gia đình có quyền thế mà tham vọng quá lớn, không biết tài sản địa vị của mình đang có, luôn luôn vơ vét, bốc lột tiền của, của người khác và tranh dành quyền thế để thống trị kẻ dưới thì nhất định sẽ đi đến chỗ tiêu diệt.
Theo Kinh Bại Vong
Nguyên văn kinh:
Kinh Bại Vong (Paràbhava) (Sn 18)
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:
Thiên nhân:
91. Về bại vong con người,
Con hỏi Gotama,
Con đến hỏi Thế Tôn,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
92. Thật dễ hiểu thành công,
Thật dễ hiểu bại vong,
Ưa mến pháp, thành công,
Thù ghét pháp bại vong.
Thiên nhân:
93. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ nhất về bại vong,
Thứ hai, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
94. Ai mến kẻ bất thiện,
Không ái luyến bậc thiện,
Thích pháp kẻ bất thiện,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
95. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ hai về bại vong,
Thứ ba, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
96. Người tánh ưa thích ngủ,
Thích hội chúng, thụ động,
Biếng nhác, thường phẫn nộ,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
97. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ ba về bại vong.
Thứ tư, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
98. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ hết,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
99. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tư về bại vong.
Thứ năm, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
100. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các khất sĩ khác,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
101. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ năm về bại vong.
Thứ sáu, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
102. Người giàu có tài sản,
Có vàng bạc thực vật,
Hương vị ngọt một mình,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
103. Như vậy, chúng con rõ
Thứ sáu về bại vong.
Thứ bảy, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
104. Người tự hào về sanh,
Về tài sản dòng họ,
Khinh miệt các bà con,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
105. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ bảy về bại vong,
Thứ tám, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
106. Người đắm say nữ nhân,
Đắm say rượu, cờ bạc,
Hoang phí mọi lợi đắc,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
107. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tám về bại vong.
Thứ chín, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
108. Không vừa đủ vợ mình,
Được thấy giữa dâm nữ,
Được thấy với vợ người,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
109. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ chín về bại vong.
Thứ mười, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
110. Người tuổi trẻ đã qua,
Cưới cô vợ vú tròn,
Ghen nàng không ngủ được,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
111. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ mười về bại vong.
Thứ mười một, xin nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
112. Đàn bà, hay đàn ông,
Rượu chè, tiêu hoang phí,
Được địa vị quyền thế,
Chính cửa vào bại vong.
Thiên nhân:
113. Như vậy, chúng con biết,
Thứ mười một bại vong.
Thứ mười hai, xin nói,
Cửa vào của bại vong?
Thế Tôn:
114. Tài sản ít, ái lớn,
Sanh gia đình hoàng tộc,
Ở đây muốn trị vì,
Chính cửa vào bại vong.
115. Bại vong này ở đời,
Bậc trí khéo quán sát,
Đầy đủ với chánh kiến,
Sống hạnh phúc ở đời.
Chân thành cám ơn chị BY đã đánh máy vi tính, cư sĩ Bình Anson gởi tặng,
(Trang nhà Quảng Đức 02/2002)

TRƯỜNG THỌ (Pháp tu cho người bệnh nặng)

 SĀ 1034

TRƯỜNG THỌ
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Tỳ-khưu Ānalayo

 

Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc (Veluvana), khu Ca-lan-đà (Kalandakā) tại thành Vương Xá (Rājagaha). Bấy giờ có đồng tử Trường Thọ (Dīghāvu) là con trai của gia chủ Thọ Đề (Jotika) thân mắc bệnh nặng.

Bấy giờ Thế Tôn nghe tin đồng tử Trường Thọ thân mắc bệnh nặng, sáng sớm đắp y ôm bát vào thành Vương Xá khất thực. Rồi đi đến nhà đồng tử Trường Thọ. Đồng tử Trường Thọ từ xa thấy Thế Tôn, vịn giường muốn ngồi dậy.

Thấy thế, Thế Tôn nói: “Này đồng tử, không nên ngồi dậy, bệnh khổ sẽ gia tăng.” Thế Tôn ngồi xuống rồi hỏi: “Bệnh của con có chịu đựng được không? Bệnh giảm dần hay tăng thêm?”

Đồng tử Trường Thọ bạch Phật: ““Bệnh của con không thuyên giảm và thân con không được an ổn; các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không giảm bớt. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu rồi dùng hai tay siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự đau đớn của con còn hơn thế nữa.

“Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra. Làm sao con bò ấy chịu đựng được sự đau đớn ở bụng? Hiện tại bụng của con còn đau đớn hơn thế nữa.

“Giống như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân. Hiện tại hai chân của con còn nóng hơn thế nữa. Bệnh khổ của con chỉ gia tăng, không giảm bớt.”

Thế Tôn nói: “Này đồng tử Trường Thọ, con nên học tập như vầy: ‘Tôi có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Phật. Tôi có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Pháp. Tôi có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Tăng. Tôi đã thành tựu Thánh giới.’ Nên học tập như vậy.”

Đồng tử bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, như Thế Tôn đã dạy về bốn bất hoại tịnh tín. Con luôn luôn có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Phật. Con luôn luôn có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Pháp. Con luôn luôn có lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Tăng. Con luôn luôn thành tựu Thánh giới.”

Phật bảo đồng tử: “Dựa vào bốn bất hoại tịnh tín, con nên tiếp tục tu tập sáu minh phần tưởng. Những gì là sáu? Quán tưởng vô thường trong tất cả các hành, quán tưởng khổ trong những gì là vô thường, quán tưởng vô ngã trong những gì là khổ, quán tưởng về thực [*], quán tưởng tất cả thế gian không gì đáng vui, và quán tưởng về sự chết.”

Đồng tử bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, bây giờ con có sáu minh phần tưởng, tu tập dựa vào bốn bất hoại tịnh tín như Ngài đã dạy. Nhưng con vẫn có ý nghĩ: ‘Sau khi mình chết, không biết cha của mình là gia chủ Thọ Đề sẽ thế nào?’”

Bấy giờ gia chủ Thọ Đề nói với đồng tử Trường Thọ: “Bây giờ con đừng nghĩ đến chuyện đó. Hãy tập trung chăm chú nghe Thế Tôn nói Pháp và ghi nhớ, như thế mới có thể được phước lợi, an vui, nhiêu ích lâu dài.”

Đồng tử Trường Thọ nói: “Con quán tưởng vô thường trong tất cả các hành, quán tưởng khổ trong những gì là vô thường, quán tưởng vô ngã trong những gì là khổ, quán tưởng về thực, quán tưởng tất cả thế gian không gì đáng vui, và quán tưởng về sự chết. Lúc nào con cũng giữ các điều đó trước mặt.”

Phật bảo đồng tử: “Hôm nay con đã tự ký thuyết quả Nhất lai.”

Đồng tử Trường Thọ bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, xin thỉnh Ngài thọ thực tại nhà con.” Rồi Thế Tôn im lặng nhận lời.

Gia đình của đồng tử Trường Thọ liền cho sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành, cung kính cúng dường. Sau khi thọ thực xong, Thế Tôn thuyết pháp thêm cho đồng tử Trường Thọ, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Ghi chú:

[*] Bốn loại thức ăn, tứ thực (āhārā), theo Tỳ-khưu Giác Giới, Kho tàng Pháp học (2005):

1. Đoàn thực (kabaliṅkārāhāra) là vật thực thô tế mà chúng sanh ăn uống nhai nếm như cơm cháo v.v... để nuôi dưỡng thân sắc pháp. Khi liễu tri đoàn thực cũng sẽ liễu tri tham phát sinh từ Ngũ dục.

2. Xúc thực (phassāhāra) là xúc tâm sở, sự hội tụ của căn - cảnh - thức sẽ làm duyên cho thọ sinh khởi. Khi liễu tri xúc thực cũng sẽ liễu tri tam thọ.

3. Tư niệm thực (manosañcetanāhāra) là tư tâm sở, sự cố ý hành động tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, sẽ làm nhân cho quả tái tục trong các hữu. Khi đạt tri được tư niệm thực cũng sẽ đạt tri ba ái.

4. Thức thực (viññāṇāhāra) là thức uẩn hay tâm thức, pháp làm duyên trợ danh sắc. Khi đạt tri được thức thực cũng sẽ đạt tri danh sắc.

Đoàn thực là sắc vật thực, còn xúc thực, tư niệm thực và thức thực là danh vật thực. Gọi là vật thực vì các pháp ấy nâng đỡ nuôi dưỡng danh pháp và sắc pháp, làm cho sự sống được phát triển. – (SN 12.63, SĀ 373)

XVII.3 THẢO LUẬN

Trong khi bài kinh của Tạp A-hàm chấm dứt khi Đức Phật rời khỏi nhà của Dīghāvu, bài kinh tương đương trong Tương ưng bộ thuật lại những gì đã xảy ra sau Đức Phật ra về. Bản kinh đó ghi như sau:

Không bao lâu sau khi Thế Tôn ra đi, cư sĩ Dīghāvu liền mệnh chung. Rồi một số tỳ-khưu đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, người cư sĩ tên là Dīghāvu sau khi được nghe Thế Tôn giáo giới một cách tóm tắt, đã mệnh chung. Vị cư sĩ ấy tái sinh về nơi nào?”

“Này các tỳ-khưu, cư sĩ Dīghāvu là người hiền trí. Cư sĩ Dīghāvu đã tu tập đúng theo Pháp, không hành sai Pháp khiến Ta phải phiền lòng. Sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, cư sĩ Dīghāvu được hóa sinh, sẽ đắc Niết-bàn tại đấy, không trở lại thế giới này nữa.”

Như thế, trong phiên bản Pāli, các lời dạy sâu sắc của Đức Phật đã giúp cư sĩ Dīghāvu đang lâm trọng bệnh có thể buông bỏ mọi lo âu về cha của mình và từ đó, cư sĩ đắc quả vị Bất lai. Bên cạnh kết luận khác nhau, sự khác biệt khác giữa hai phiên bản liên quan đến sáu pháp quán tưởng mà Đức Phật đã dạy cho Dīghāvu. Bản kinh trong Tương ưng bộ có ba pháp quán tưởng cuối khác với bản Tạp A-hàm là:

• quán tưởng về từ bỏ,

• quán tưởng về ly tham,

• quán tưởng về đoạn diệt.

Các pháp quán tưởng này, trong cùng một trình tự, tương tự như các pháp quán tưởng trong chương trình hành thiền được phác họa trong bài kinh Girimānanda (AN 10.60), đã được giới thiệu trong Chương 12 và sẽ được thảo luận thêm trong phần kết luận.

Ba pháp quán tưởng đầu tiên, chung cho hai phiên bản của bài kinh, tương ứng với ba đặc tướng của đời sống, giáo lý căn bản để phát triển tuệ giác trong tư tưởng Phật giáo Sơ kỳ. Ba pháp quán tưởng ấy là:

• quán tưởng về vô thường trong tất cả các hành,

• quán tưởng về khổ (dukkha) trong những gì là vô thường,

• quán tưởng về về vô ngã trong những gì là khổ.

Ba quán tưởng này phản ánh một mô hình cơ bản trong tu tập tuệ giải thoát. Nền tảng được đặt ra là có sự nhận thức rõ ràng và liên tục về sự kiện thực tế là tất cả các hành (saṅkhāra, pháp hữu vi, có điều kiện) có bản chất thay đổi, không ngoại lệ. Tiếp đến là cái nhìn sâu sắc rằng những gì là vô thường không thể mang lại sự hài lòng lâu dài, vì thế là khổ (dukkha). Cái gì không thỏa lòng và luôn luôn có tính chất thay đổi thì không thể xem như là “tự ngã”, bởi vì theo định nghĩa, “ngã” phải là cái gì thường tồn, không thay đổi (theo quan niệm về ngã trong tư tưởng Ấn Độ cổ đại). Sự thông hiểu này dẫn đến pháp quán tưởng về vô ngã, anattā. Chính xác là sự tự do không còn chấp thủ bắt nguồn tự nhận thức về khổ tạo thêm nhiên liệu để tiến sâu vào nhận thức về vô ngã.

Trong phương diện thực hành, trau dồi ba pháp quán tưởng này bắt đầu bằng cách ghi nhận tất cả các khía cạnh mà hành giả trải nghiệm như là một tiến trình, như là một cái gì đó luôn luôn thay đổi. Khi nhận thức về vô thường như thế được thiết lập tốt, hành giả tiếp tục nhận thức tiến trình trải nghiệm về sự đổi thay đó với thái độ không thỏa lòng và thất vọng. Vẫn duy trì nhận thức được cùng một tiến trình thay đổi, vô thường ấy, tiếp theo hành giả nuôi dưỡng một thái độ sẵn sàng buông bỏ các khuôn mẫu đồng hóa nhân thân với những gì đang trải nghiệm và buông bỏ ý tưởng sở hữu bất kỳ khía cạnh nào của trải nghiệm đó – buông bỏ các ý niệm về ngã (tôi) và ngã sở (của tôi).

Dựa trên mô hình cơ bản này để tu tập phát triển tuệ giác, thay vì tiếp tục với các pháp quán tưởng về từ bỏ, ly tham, và đoạn diệt như trong bản kinh Nikāya, phiên bản Tạp A-hàm liệt kê tiếp theo ba pháp quán tưởng sau đây:

• quán tưởng về các vật thực,

• quán tưởng về nhàm chán đối với toàn thế giới,

• quán tưởng về cái chết.

Đầu tiên trong ba pháp này, quán tưởng về các vật thực, rất có thể là về bốn loại thức ăn (tứ thực, āhārā):

• đoàn thực,

• xúc thực,

• tư niệm thực,

• thức thực.

Những lời giảng dạy về các loại dinh dưỡng ấy cho thấy cách thức bốn loại thức ăn này nuôi dưỡng sự liên tục của hiện hữu và là những điều kiện thiết yếu cho sự hiện hữu đó. Đoàn thực cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể; xúc thực nuôi dưỡng cảm giác. Cũng giống như sự kích thích của cơn đói thể chất khiến ta phải đi tìm thức ăn, thèm khát trong tâm ý về các kích thích dẫn đến kết quả tìm kiếm sự tiếp xúc. Tư niệm là một chất nuôi dưỡng căn bản theo quan điểm của giáo lý về nghiệp trong Phật giáo Sơ kỳ, đại diện cho ảnh hưởng tạo điều kiện của các hành động cố ý để xác định một cá thể là gì, như thế nào và sẽ trở thành qua các hoạch định và khát vọng. Cuối cùng, mong muốn được trải nghiệm như thế là phương cách mà thức uẩn, sự nhận biết, nuôi dưỡng sự liên tục của hiện hữu.

Quán tưởng về bốn loại thức ăn và phương cách chúng nuôi dưỡng và từ đó tạo điều kiện cho sự tiếp tục hiện hữu của một cá nhân có thể giúp dẫn đến một nhận thức mạnh mẽ đưa đến giác minh, trong ý nghĩa nó giúp hành giả thấy được mức độ mà sự hiện hữu tùy thuộc vào các loại thức ăn này.

Hai pháp quán tưởng khác trong phiên bản Tạp A-hàm là quán tưởng về sự nhàm chán đối với toàn thế giới và quán tưởng về chết. Quán tưởng về sự nhàm chán đối với toàn thế giới đã được đề cập trong bài kinh Girimānanda ở Chương 12 và sẽ được thảo luận thêm trong phần kết luận của cuốn sách. Trong bối cảnh hiện tại của chương này, đây là một phần nối tiếp tự nhiên từ quán tưởng các loại dinh dưỡng đưa đến sự giảm thiểu hoan lạc của hành giả đối với hiện hữu. Tiếp theo là quán tưởng về cái chết để giúp hành giả chấp nhận sự tử vong không tránh được, một đề tài tôi sẽ trình bày chi tiết ở Chương 24.

Như đã đề cập trong phần giới thiệu của chương này, một đóng góp cụ thể của bài kinh là ghi nhận về mối quan hệ gia đình tại thời điểm cận kề cái chết. Gia chủ Jotika cố gắng khuyên con trai của mình là Dīghāvu nên sử dụng cơ hội quý giá này để tăng tiến phát triển tuệ giác và tăng tiến tâm ý buông xả trong sự hiện diện của Đức Phật. Thật ra, Dīghāvu đã có các phẩm chất cao quý và quen thuộc với các pháp quán tưởng đã được đức Phật đề cập. Tuy nhiên, dường như vì lo lắng về cha mình đã ngăn cản anh ta chuyên tâm vào các pháp quán tưởng đó. Thái độ của gia chủ Jotika trong tình huống này là mẫu mực của cách thức chúng ta nên áp dụng khi người mà ta yêu quý đang cận kề với cái chết. Mục đích chính là khuyến khích người sắp chết nên buông bỏ những quan tâm và lo âu, không nên bị vướng bận vào bất cứ điều gì. Theo cách này, phù hợp với cơ bản của các lời Đức Phật dạy cho Dīghāvu, chính gia chủ Jotika cũng tự thực hành và đồng thời khuyến khích con trai của mình thực hành một điều quan trọng nhất khi đối mặt với cái chết: tâm không chấp thủ.

* * *

SN 55.3
DĪGHĀVU
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Tỳ-khưu Bodhi

Một thời, Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, cư sĩ Dīghāvu bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Rồi cư sĩ Dīghāvu thưa với cha là Jotika:

“Xin cha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nhân danh con, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Bạch Thế Tôn, cư sĩ Dīghāvu bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.’ Rồi nói: ‘Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Ngài đi đến nhà cư sĩ Dīghāvu vì lòng từ mẫn.’”

“Ðược, này con,” gia chủ Jotika trả lời, rồi đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên, rồi bạch theo lời của Dīghāvu. Thế Tôn im lặng nhận lời.

Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của cư sĩ Dīghāvu. Sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, Thế Tôn nói với cư sĩ Dīghāvu: “Này Dīghāvu, con có kham nhẫn được chăng? Con có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không tăng trưởng?”

“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, con không thể chịu đựng. Ðau đớn kịch liệt nơi con không có giảm thiểu, chúng tăng trưởng. Chúng có dấu hiệu tăng trưởng, không có dấu hiệu giảm thiểu.”

“Do vậy, này Dīghāvu, hãy học tập như sau: ‘Tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

‘Tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đối với Pháp: Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.

‘Tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đối với Tăng: Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, chân chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng, chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời.

‘Tôi sẽ thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định’. Hãy học tập như thế.”

“Bạch Thế Tôn, đối với bốn Dự lưu phần do Thế Tôn thuyết giảng, tất cả các pháp ấy đều có ở trong con. Con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con thành tựu lòng tin bất động đối với Phật ... đối với Pháp ... đối với Tăng ... Con thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính ... đưa đến thiền định.”

“Do vậy, này Dīghāvu, sau khi đã an trú trong bốn Dự lưu phần này, hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (cha vijjābhāgiye dhamme). Ở đây, này Dīghāvu, hãy trú, quán tưởng vô thường trong tất cả các hành, quán tưởng khổ trong những gì là vô thường, quán tưởng vô ngã trong những gì là khổ, quán tưởng về từ bỏ, quán tưởng về ly tham, quán tưởng về đoạn diệt. Hãy học tập như thế.”

“Bạch Thế Tôn, đối với sáu minh phần pháp được Thế Tôn thuyết giảng này, chúng đều có ở trong con và con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con trú, quán tưởng vô thường trong tất cả các hành, quán tưởng khổ trong những gì là vô thường, quán tưởng vô ngã trong những gì là khổ, quán tưởng về từ bỏ, quán tưởng về ly tham, quán tưởng về đoạn diệt. Tuy nhiên bạch Thế Tôn, con có ý nghĩ sau đây: ‘Sau khi mình chết đi, mong rằng gia chủ Jotika này không phải rơi vào cảnh khốn khổ.’”

“Này Dīghāvu, chớ có quan tâm như vậy. Hãy chăm chú lắng nghe những gì Thế Tôn đang nói cho con.”

Rồi Thế Tôn sau khi giáo giới cho cư sĩ Dīghāvu, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Không bao lâu sau khi Thế Tôn ra đi, cư sĩ Dīghāvu liền mệnh chung.

Rồi một số tỳ-khưu đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, người cư sĩ tên là Dīghāvu sau khi được nghe Thế Tôn giáo giới một cách tóm tắt, đã mệnh chung. Vị cư sĩ ấy tái sinh về nơi nào?”

“Này các tỳ-khưu, cư sĩ Dīghāvu là người hiền trí. Cư sĩ Dīghāvu đã tu tập đúng theo Pháp, không hành sai Pháp khiến Ta phải phiền lòng. Sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, cư sĩ Dīghāvu được hóa sinh, sẽ đắc Niết-bàn tại đấy, không trở lại thế giới này nữa.”

***

Như vậy, một người cư sĩ Phật giáo nếu bệnh nặng thì nên bám chặt vào 4 niềm tin và 6 pháp quán dưới đây thì sẽ làm chủ được chấm dứt sinh tử luân hồi, đó là:

@ 4 niềm tin:

1. Phật là bậc giác ngộ, làm chủ sinh lão bệnh tử.

2. Pháp là chân lý được Phật tuyên thuyết, đưa đến giác ngộ giải thoát.

3. Tăng là những người thực hành theo Pháp và đạt kết quả giải thoát.

4. Giới là những hành động đạo đức cụ thể hóa từ Pháp Phật giúp đưa đến sự giải thoát.

@ 6 pháp quán:

1. Quán tưởng vô thường trong tất cả các hành, 

2. Quán tưởng khổ trong những gì là vô thường, 

3. Quán tưởng vô ngã trong những gì là khổ, 

4. Quán tưởng về thực, 

5. Quán tưởng tất cả thế gian không gì đáng vui, 

6. Quán tưởng về sự chết.