THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Thập Nhị Nhân Duyên là 12 yếu tố cấu thành nên vũ trụ nói chung
và chúng sinh nói riêng, trong đó bao gồm cả loài người. Vũ trụ đang vận hành
theo 12nd liên tục không ngưng nghỉ, loài người cũng đang bị 12nd tác động, chi
phối liên tục không gián đoạn.
Dưới đây là bài tham khảo của Tỳ kheo Thích Tâm Hải, tuy nhiên
bài viết này còn một số chỗ chưa thật sâu sát, cho nên Vijja Ratana bổ sung
thêm nội dung trong dấu ngoặc vuông […]
in nghiêng.
Vijja Ratana
________________________________________
Mười hai nhân duyên
(Thập nhị nhân duyên)
-Thích Tâm Hải-
________________________________________
A. Dẫn nhập
Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc
biệt của giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada)[1]). Giáo lý này do
chính Đức Phật thể chứng dưới cội bồ đề sau 49 ngày tư duy thiền định, từ đó
Ngài trở thành một bậc Giác ngộ hoàn toàn.
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù,
là điểm xác định sự khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt
lõi của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh
điển. Nhận thức rõ về giáo lý mười hai nhân duyên sẽ giúp người học Phật hiểu
cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như nghiệp, nhân quả, luân hồi tái sinh,... đồng
thời gợi mở một hướng sống tích cực cho mỗi cá nhân trong hiện tại.
B. Nội dung
I/ Ðịnh nghĩa:
1- Thế nào là nhân
duyên?
Nhân là yếu tố quyết định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt
của một hiện hữu. Duyên là điều kiện hỗ trợ, tác động làm cho nhân sinh khởi.
Ví dụ: hạt lúa là nhân của cây lúa; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt
trời, người gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây
lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc biệt là
trong thế giới tâm thức; và "nhân duyên" nói cho đủ là "nhân -
duyên - quả".
"Nhân duyên" trong "mười hai nhân duyên" hàm
ý nghĩa "nhân duyên khởi": sự nương tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy
thuộc phát sinh, nói chính xác là "do cái này có mặt, cái kia có mặt; do
cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do
cái này diệt, cái kia diệt".
2- Mười hai nhân duyên
là gì?
Trong kinh Tương Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Ðức Phật đã thuyết
minh về mười hai nhân duyên (Duyên khởi) như sau:
"Do Vô minh, có Hành
sinh; do Hành, có Thức sinh; do Thức, có Danh Sắc sinh; do Danh Sắc, có Lục
nhập sinh; do Lục nhập, có Xúc sinh; do Xúc, có Ái sinh; do Ái, có Thủ sinh; do
Thủ, có Hữu sinh; do Hữu, có Sinh sinh; do Sinh sinh, có Lão Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu,
Não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi".
"Do đoạn diệt[2]
Tham ái, Vô minh một cách hoàn toàn, Hành diệt; do Hành diệt nên Thức diệt; do Thức
diệt nên Danh Sắc diệt; ...; do Sinh diệt nên Lão Tử, Sầu Bi, Khổ, Ưu, Não
diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là
đoạn diệt". (tr 1-2)
Mười hai nhân duyên được Ðức Phật định nghĩa gồm hai chiều
hướng: chiều hướng sinh khởi (còn gọi là lưu chuyển: do Vô minh, Hành sinh...)
và chiều hướng đoạn diệt (còn gọi là hoàn diệt: do đoạn diệt Tham ái, Vô minh
một cách hoàn toàn nên hành diệt...). Khi mười hai nhân duyên được thành lập
(tập khởi), nghĩa là năm uẩn[3] tập khởi, và đây là chiều hướng của khổ
đau, luân hồi. Khi mười hai mắt xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc năm
uẩn cũng tan rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là
cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó nói lên
mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
Theo cách trình bày trên, vô minh được xem như là căn nguyên,
nguồn cội, cốt lõi của mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô
minh là nguyên nhân đầu tiên của chuỗi liên kết đó. Bởi Ðức Phật dạy, Vô minh
cũng do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên (tích cực) thì vô
minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ; đây là ý nghĩa "Vô minh diệt, Minh
sinh".
Cũng cần lưu ý đôi chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức
Duyên khởi này. Ðịnh nghĩa được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một
cách trình bày tiêu biểu nhất, gồm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một số bản kinh
khác, như kinh Ðại Duyên (Trường Bộ kinh II), kinh Ðại Bỗn Duyên (Trường A Hàm
I)... Ðức Phật trình bày chỉ gồm 5, 8, 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi phần.
Vấn đề này được các nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ mỉ,
và tất cả đều thống nhất, số mục 12 chi phần được xác định qua nội dung thiền
quán của Ðức Phật dưới cội bồ đề. Ðây là dạng thức chính xác, đầy đủ và phù hợp
nhất với tư duy của con người. Sự sai khác về số mục các chi phần chỉ là thể
hiện phương pháp giáo hóa linh động của Ðức Phật, Ngài tùy thuộc vào trình độ
của người nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Ðiều này sẽ được làm sáng tỏ ở phần
nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên.
Ðối tượng nghe giáo lý mười hai nhân duyên là con người, vì nặng
về tâm luyến ái và chấp thủ, nên Ðức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này,
đặc biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi Ái (hay
bất luận một chi phần nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc 12 nhân duyên hình
thành; và ngược lại, khi chi phần Ái hay Thủ (hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn
diệt, lập tức chuỗi mắc xích 12 nhân duyên tan rã. Ðây cũng là ý nghĩa, mà
trong luận Ðại Tỳ Bà Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần cũng được,
hai, ba, ... cho đến 12 chi phần cũng được.
II/ Ý nghĩa của mười
hai chi phần nhân duyên:
1- Vô minh (Avijjà): sự mê mờ, cuồng si của tâm thức; hay nói cách khác là sự không
hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không có một tự thể
độc lập, bất biến.
[Cụ thể, Vô minh là
không giác ngộ Tứ Diệu Đế, không thông suốt lý Vô thường, Vô ngã, Khổ, Không,
Nhân quả, Nghiệp, tái sinh luân hồi…].
2- Hành (Sankhàra): động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và
ý.
[Có 3 hành: Thân hành,
Khẩu hành, Ý hành; và 3 dạng hành: hành thiện, hành ác, hành kết hợp thiện và
ác].
3- Thức (Vinnana): tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức
năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ thức), lưỡi (thiệt thức),
thân (thân thức) và ý (ý thức).
[Hay còn gọi là
Nghiệp, là một dạng từ trường tồn tại trong không gian].
4- Danh sắc (Nàma -
rùpa): sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần
tâm lý. Với con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng của
chúng; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
[Danh chính là phần
Nghiệp được chuyển qua. Sắc chính là phần vật chất, bắt đầu từ tinh trùng và
trứng].
5- Lục nhập
(Chabbithàna): có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa 6
căn (= 6 nội xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của chúng là 6
trần (= 6 ngoại xứ: hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng -
pháp).
6- Xúc (Phassa): sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần
(đối tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và thế giới
thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức phát sinh do mắt tiếp xúc
với hình thể (sắc trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc
là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức.
7- Thọ (Vedanà): sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi
mắt tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng
(pháp).
Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu
(khổ thọ) và cảm thọ trung tính (phi khổ phi lạc). Ðây là chất liệu mà con
người thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khổ đau, bất
hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đỗi, không hề có một tự tính
cố định.
[Lạc thọ tương đương
với Tham. Khổ thọ tương đương với Sân. Bất lạc bất khổ thọ tương đương với Si].
8- Ái (Tanhà): gọi đủ là ái dục hay khát ái: sự vướng mắc, yêu thích, tham
luyến; gồm có Dục ái, Sắc ái và Vô sắc ái.
[Dục ái là các ham
muốn thuộc về tinh thần, hay còn gọi là lục dục. Sắc ái là các ham muốn thuộc
về vật chất. Vô sắc ái là các ham muốn thuộc về tưởng].
9- Thủ (Upadàna): gọi đủ là chấp thủ: sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức
vào một đối tượng.
[Thủ có 4 loại: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã luận thủ].
10- Hữu (Bhava): tiến trình tương duyên để hình thành, gồm dục hữu, sắc hữu và
vô sắc hữu.
[Hữu có 3 loại: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu].
11- Sinh (Jati): sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh
ra em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành tựu các xứ
(các cơ quan tri giác và chức năng của chúng).
[Sinh còn gọi là sinh
y, tức đời sống].
12- Lão tử
(Jaramrana): sự suy nhược, tàn lụi, tuổi thọ lớn, tan rã,
tiêu mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được biểu hiện dưới các hiện
tượng: răng lung, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri giác suy yếu và chết.
III/ Sự vận hành của
mười hai nhân duyên:
Thông qua ý nghĩa của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt
là chi phần Lục nhập, một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là
giáo lý nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan tri
giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên cũng chính là nói
về sự vận hành con người.
Vì không nhận biết hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân
duyên hòa hợp mà sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng,
nên con người ảo tưởng về một tự ngã: đây là cái tôi và đây là cái của tôi (Vô
minh). Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi lòng
tham ái, chấp thủ... Và đó là động cơ cho các hành động của thân, lời và ý
(Hành). Mỗi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của
Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức
(Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc
sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm
thọ sẽ tuôn chảy như một dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản
được, vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gồm những phản ứng tâm lý trước
đối tượng như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính... Cảm thọ dễ chịu sẽ làm
phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới
nhiều hình thức tương ứng với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra
Sinh, và mỗi khi đã có Sinh, thì tiến trình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành
như một hệ quả đương nhiên: nghĩa là lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não; hay khổ đau
có mặt. Ðó là sự vận hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu
chuyển) - chiều vận hành này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói
khác đi, đây là con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối bởi vô
minh.
Trong phần thuyết minh về mười hai nhân duyên, Ðức Phật không
chỉ nêu lên con đường tập khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra
nguyên nhân tập khởi và con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mỗi khi đoạn diệt bất
kỳ một chi phần nào trong chuỗi 12 mắt xích (nhân duyên), thì lập tức nó tự tan
rã. Tuy nhiên, với con người, tham ái và chấp thủ là nặng nề nhất; nên đoạn tận
tham ái hoặc chấp thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn lý do để hiện
hữu. Ðó là ý nghĩa của lời Phật dạy: "Ái diệt tức Niết bàn".
Sự vận hành của mười hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến
trình hình thành một sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối
cùng), mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn nguyên
có mặt của con người (và cuộc đời); nó không bị giới hạn bởi thời gian và không
gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô minh chưa được đoạn tận thì con người
vẫn bị chi phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn luẩn
quẩn trong luân hồi, khổ đau bất tận - khi 12 nhân duyên đoạn diệt, đồng nghĩa
với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
IV/ Một số cách giải
thích về mười hai nhân duyên:
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện
hữu. Nó là sự thật nên không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Ðức
Phật khẳng định rằng: "Duyên sinh là
thực tính của mọi hiện hữu, sự thật này không thay đổi dù Như Lai có xuất hiện
hay không xuất hiện". Một hiện hữu dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử
đến to lớn như vũ trụ cũng không nằm ngoài nguyên lý này. Với đặc tính đó, giáo
lý mười hai nhân duyên có thể dùng để soi sáng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời
như luân hồi, nhân quả... tùy thuộc theo góc quan sát của người giải thích. Ở
đây chỉ giới thiệu 4 cách giải thích phổ biến.
1- Dạng thức tổng quát:
"Do cái này có
mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này
sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt". (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái
quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Ðức Phật nói. Nó được xem như là một
nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng. Nói chính xác hơn, nếu
mười hai nhân duyên là dạng thức duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tổng
quát nói về bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không có
tình thức (khí thế giới).
2- Ba đời hai tầng
nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả):
Ba đời là quá khứ, hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách
giải thích này, Vô minh và Hành thuộc về quá khứ; hiện tại gồm có 8 chi phần
(từ Thức đến Hữu); Sinh và Lão Tử thuộc về vị lai. Mặt khác, Thức, Danh Sắc, Lục
nhập được xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là Vô minh và Hành, đây là tầng
nhân quả thứ nhất. Các chi phần Thọ, Ái, Thủ và Hữu là nhân hiện tại cho quả vị
lai là Sinh và Lão Tử; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp giữa 2 lớp nhân
quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ chặt chẽ, tương tục của
dòng chảy thời gian: quá khứ - hiện tại - vị lai. Qua cách giải thích này, ý đồ
dùng giáo lý mười hai nhân duyên để giải thích luân hồi đã thể hiện rõ. Tuy
nhiên, cách phân chia như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là Vô minh và Hành
chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại, Sinh và Lão Tử thì
thuộc về tương lai (!). Thực ra, trong hiện tại (và ngay trong mỗi chi phần) đã
có mặt Vô minh. Khi một chi phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của mười
một chi phần còn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 chi
phần nhân duyên tự sụp đổ. Như đã phân tích, mười hai nhân duyên là một dòng
tương tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào thời gian (quá khứ, hiện tại hay
tương lai). Cách giải thích này vô tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo lý
mười hai nhân duyên - một giáo lý vốn được xem là rất thâm sâu và tinh tế.
3- Nhân quả đồng thời:
Khi nói "Do Vô minh, Hành sinh...", không nên hiểu là
hành do Vô minh sinh ra. Giữa Vô minh và Hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến
tính, đơn phương; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện hữu tùy
thuộc vào yếu tố thời gian (trước - sau). Cách giải thích này nói rằng, ngay
trong một sát na[4] đã có sự hiện hữu đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi
ý niệm lệch lạc về một cái tôi và cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt
chuỗi nhân quả tương tục: ý chí tạo tác (Hành), tri giác phân biệt và chấp thủ
(Thức)... đến Lão Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não. Mỗi một chi phần vừa là quả vừa là
nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng lẫn nhau.
4- Sự hiện hữu của một
đời sống con người (mạng căn):
Một trong 3 yếu tố quyết định để hình thành một thai nhi là có
sự hiện hữu nghiệp thức đi đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của Vô minh và Hành
trong quá khứ. [Các yếu tố khác là có sự
mong cầu của một cặp vợ chồng và có sự giao hợp có khả năng dẫn đến có thai].
Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm Danh Sắc có mặt. Lục nhập là giai đoạn
thai nhi hình thành đầy đủ các căn. Giai đoạn trẻ bú mớm là giai đoạn của Xúc. [Thực tế Xúc hình thành ngay từ lúc thai nhi
còn trong bụng mẹ]. Trẻ từ 3-5 tuổi là lúc Thọ hình thành. [Thực tế Thọ cũng hình thành ngay từ lúc
thai nhi còn trong bụng mẹ]. Từ đây trở về trước, theo lối giải thích này,
là biểu hiện của nghiệp quá khứ, trẻ chưa tác ý thiện ác để tạo nên nghiệp hiện
tại. Khi trẻ biết vui, buồn, ưa, ghét... là lúc Ái, Thủ, Hữu hình thành và
chính đây mới là giai đoạn mà trẻ tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân
mạng mới ở tương lai (Sinh, Lão Tử).
V) Một số hệ luận từ
giáo lý mười hai nhân duyên:
1- Con người (và cuộc đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai
nhân duyên, nên không hề có một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính
là chủ nhân của cuộc đời mình, bởi giáo lý mười hai nhân duyên cho thấy sự
thật: "Không thể tìm ra một đấng
sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời
sống; chỉ có những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện"[5].
2- Con người và cuộc đời là vô ngã, không có một tự tính thường
hằng (vô thường), nên bên trong mỗi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ,
và cuộc đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
3- Khi một chi trong mười hai nhân duyên vận hành nghĩa là mười
một chi phần còn lại cũng vận hành. Ðiều này nói lên sự dung thông giữa cái
"một" và cái "tất cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian,
thời gian, từ đó có thể khẳng định có sự hiện hữu của các loại thần thông.
C. Kết luận
1- Mười hai nhân duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng
nghe là con người. Vì con người bị vướng nặng vào Vô minh, Ái và chấp thủ nên
Ðức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu tập
vì mục đích giải thoát, giác ngộ.
2- Mười hai nhân duyên, hay duyên khởi, không phải là một giáo
lý dùng để đối trị chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới; mà đây là sự thật và
là một pháp tu tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lý này
là căn bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát chánh đạo). Nói khác đi, chánh
kiến là cái nhìn toàn diện, như thật về các pháp là do duyên sinh.
3- Vô ngã hay giải thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái
trống trơn, mà là sự trống rỗng ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách
khác, đó là trạng thái không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.
4- Mọi giá trị trong cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc
sống là duyên sinh, luôn trôi chảy và không thể nắm bắt.
5- Hiện hữu hay cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa
phương giữa con người với con người, giữa con người với môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xã
hội tốt đẹp, và ngược lại. Mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đổng, bởi xây
dựng cộng đồng chính là đang bảo vệ cá nhân mình.
6- Mười hai nhân duyên, hay giáo lý duyên khởi nói chung, là một
giáo lý vô cùng tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư duy
hữu ngã từ vô thủy. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này đòi hỏi phải có
sự quán sát và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lý mười hai
nhân duyên (theo chiều đoạn diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho
hành giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại.
Bởi như lời Phật dạy: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai
thấy Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối
hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi vô
minh, tham ái và chấp thủ này.
Thích Tâm Hải
Nguyệt san Giác Ngộ, tháng 2-1999
Chú thích:
[1] Còn gọi là Duyên sinh, Y tha khởi: sự nương tựa vào các yếu
tố khác mà sinh khởi, hình thành, hiện hữu; tùy thuộc phát sinh.
[2] Diệt trừ, xả bỏ, chuyển hóa (Pàli: uccheda)
[3] Hình thể (sắc), cảm thọ (thọ), ấn tượng của tri giác
(tưởng), ý chí tạo tác (hành), và tri giác hiện hữu (thức).
[4] Khoảng thời gian rất ngắn giữa 2 biến cố, nhỏ hơn rất nhiều
so với đơn vị thời gian là giây (Pàli: khana).
[5] Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga).