Hòa Thượng Tuyên Hóa
Sắc Dục Chướng Ngại Ðường Ðạo
Ðức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục,
không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh
bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp
thiên hạ không ai có thể tu Ðạo được cả!"










Khí lực sung túc thì không cảm thấy đói.
Thần lực đầy đủ thì không cảm thấy mệt."
Tinh, khí, thần là ba báu vật. Người xuất gia phải tu trì tinh,
khí, thần.

Phân tán thì bị ngăn ngại."
Chuyên nhất về việc gì? Tức là chuyên nhất đoạn dục vọng, trừ tham
ái. Nếu không đoạn dục vọng, trừ tham ái thì có xuất gia tu Ðạo đến muôn đời đi
nữa cũng vẫn không thành công. Vì vậy, việc này rất là trọng yếu.









Vì vậy, "người tu Đạo thấy sự dục lạc tất phải tránh xa."
Người tu Đạo cần phải lánh xa dục vọng. Nếu quý vị có thể "thấy mà như
không thấy, nghe mà như không nghe," tức là đã đạt được cảnh giới:
Nhãn quán hình sắc nội vô hữu,
Nhĩ thính trần sự tâm bất tri.
(Mắt nhìn hình sắc, lòng không động,
Tai vẳng chuyện đời, dạ chẳng hay.)
Thì bấy giờ quý vị không cần phải tu hạnh "viễn ly" nữa.
Nếu quý vị ngày ngày tiếp xúc với trần cảnh mà không bị đắm nhiễm thì không
sao; nhưng nếu không làm được như vậy thì cần phải nghiêm cẩn tu hạnh
"viễn ly" - lánh xa lửa dục!
































Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có,
Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay!
(Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu
Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.)
Khi mắt nhìn biết bao hình sắc mà trong lòng chẳng thấy có gì hiện
hữu và tai nghe những âm thanh êm dịu mà tâm trí lại không hay không biết gì
cả, tức là đã có được chút “hỏa hầu.” Tâm phải không dao động, không một ý nghĩ
nào dấy khởi, dục-niệm phải hoàn toàn không còn nữa, thì mới là đúng thật. Nếu
có những lúc quý vị vẫn còn tơ tưởng đến phái nữ, thì vẫn chưa được.





















Nghĩa là:
"Lòng dâm không dứt, Trần gian chẳng thoát."
Chỉ hai câu này thôi cũng đủ chứng minh bộ Kinh này hàm chứa diệu
lý chơn thật, xác quyết của chư Phật nói ra: "Nếu không trừ được lòng dâm
dục, thì không thể ra khỏi được Tam Giới." Cũng có thể nói rằng: Nếu không
đoạn dục, khứ ái, thì căn bản không thể nào chứng quả được! Trong Kinh Lăng
Nghiêm còn dạy rằng:
"Nhược bất đoạn dâm,
Tu Thiền Ðịnh giả,
Như chưng sa thạch,
Dục kỳ thành phạn,
Vô hữu thị xứ."
Nghĩa là:
"Không dứt lòng dâm,
Mà tu Thiền Ðịnh,
Cũng như nấu cát,
Rồi mong thành cơm,
Thật chẳng thể được."


Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đó đè nặng trong tâm, cho
nên họ dễ được thanh tịnh, giải thoát và hết sinh tử. Nếu không cắt đứt vô
minh, chúng ta vĩnh viễn sẽ bị nó chi phối, để rồi xuống địa ngục, chạy lên núi
đao, hay là vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đầu sao
mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là đã không còn kịp nữa.
















Thái sơn băng tiền nhi bất kinh
Mỹ sắc đương tiền nhi bất động.
Tạm dịch:
Thái Sơn sụp đổ mà không sợ
Sắc đẹp trước mắt tâm không động.
Người con trai đứng trước người đẹp như Tây Thi chẳng hạn, nếu theo
phép quán "sọ đầu lâu", tự nhiên sẽ hết động tâm.Người con gái khi
gặp một chàng trai anh tuấn như Phan An năm xưa, nếu theo phép quán "xương
trắng", cũng chẳng động tâm. Nếu không có pháp đó thì mỗi khi gặp gái đẹp,
trai anh tuấn, cái tâm liền chạy lăng xăng, như vượn leo, như ngựa chạy, không
biết như thế nào mới đúng. Chỉ vì không đủ định lực, thành thử uổng phí mất Ðạo
nghiệp, thật đáng tiếc biết bao!

Nói với học sinh:




Hỏi: Giới Luật nhà Phật thật vô cùng nghiêm khắc. Như Hòa Thượng
nói là "không được tà dâm, không nên có tâm tham đắm sắc dục giữa nam
nữ," ắt hẳn sẽ có người phản đối: "Như thế là không hợp nhân
đạo!" Xin Hòa Thượng khai thị cho.
Ðáp: Muốn học làm Phật thì chẳng thể vừa lòng người được. Quý
vị muốn học làm người thì phải học làm người tốt. Tóm lại, quý
vị muốn tu hành thì phải như thế!
Hỏi: Dùng cách gì để khống chế, khắc phục lòng dâm dục, sợ hãi và
hoài nghi?
Ðáp: Ðừng ăn thịt, đừng ăn hành, đừng ăn tỏi, đừng ăn những thức
có tính chất kích thích; và hãy quán tưởng: "Tất cả người nam là cha
tôi, tất cả người nữ là mẹ tôi"; được như vậy thì lòng dâm dục sẽ
chẳng thể nảy sinh.
Do có ưu sầu nên có sợ hãi. Không có ưu sầu thì không có sợ hãi.
Không có lòng ích kỷ thì cũng không có sợ hãi. Hễ không tranh, không
tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, thì tự nhiên
không cần phải sợ sệt gì cả!
Vì sao có lòng hoài nghi? Bởi chẳng có tín tâm! Bán tín bán nghi
nên mới đâm ra ngờ vực:
Tín vi Ðạo nguyên công đức mẫu.
Nghĩa là:
Ðức tin là nguồn đạo, là mẹ của mọi công đức.
Tin tưởng ở trí huệ bản hữu của tất cả chúng sinh; đó tức là không
hoài nghi.
Tụng rằng:
Ngày ngày luôn nói thật,
Chẳng sợ bị chửi, đánh,
Giết ta, ta chẳng sợ,
Giải thoát, nào quái ngại!
"Ngày ngày luôn nói thật." Mọi ngày đều nên
nói lời chân thật, đừng dối trá.
"Chẳng sợ bị chửi, đánh." Hãy
thẳng thắn mà nói lời chân thật. Dù bị đánh bị mắng, quý vị vẫn cứ nói
thật.
"Giết ta, ta chẳng sợ." Cho dù
có kẻ giết quý vị, quý vị cũng đừng sợ sệt. Sợ gì chứ?
"Giải thoát, nào quái ngại!" Ðược
chân chánh giải thoát thì có gì mà quái ngại, có gì mà phải sợ hãi chứ?
Hỏi: Chúng tôi phải làm thế nào để khôi phục bổn-tính của mình?
Ðáp: Việc này thì rất dễ, song le, cũng rất khó. Muốn khôi phục
trí huệ quang minh của bổn tính thì trước nhất là phải giảm bớt dục niệm, tức
là cần phải quả dục. Dục vọng mà giảm bớt thì trí huệ liền hiện
tiền. Dục vọng mà dẫy đầy thì trí huệ chân chánh không thể hiện tiền được.
Cho nên, "lọc tâm, ít dục; giảm dục, biết đủ" chính
là bước đầu tiên của việc tu Ðạo. Nếu quý vị có thể thanh lọc tâm trí,
giảm bớt dục vọng, thì trí huệ quang minh bản hữu của quý vị sẽ xuất hiện.
Hỏi: Nhà Phật nói "Sáu Căn thanh tịnh" là nghĩa gì?
Ðáp: "Sáu Căn thanh tịnh" tức là: Mắt nhìn
thấy hình sắc nhưng không bị sắc-trần làm giao động, tai nghe
âm thanh nhưng không bị thanh-trần làm giao động,mũi ngửi
mùi hương nhưng không bị hương-trần làm giao động, lưỡi nếm
mùi vị nhưng không bị vị-trần làm giao động, thân không
bị xúc-trần làm giao động, vàý cũng không bị pháp-trần làm
giao động, không bị cảnh giới làm lay chuyển tức là Tam-Muội, cũng
gọi là Ðịnh.
Ðịnh không hẳn là phải ngồi Thiền mới có; mà đi, đứng, nằm, ngồi,
đều có thể ở trong Ðịnh. Người ở trong Ðịnh không phải như khúc gỗ hay bùn đất,
cái gì cũng không biết; mà trái lại, kẻ có Ðịnh thì hiểu biết mọi thứ nhưng
không bị chúng làm lay chuyển. Ðó chính là "người có thể chuyển hoàn
cảnh, chứ không để hoàn cảnh lay chuyển người" vậy!
Hỏi: Phật-tính xưa nay gốc
thanh tịnh, vậy vô-minh từ đâu ra?
Ðáp: Vô-minh từ nơi ái tình
mà ra. Vô minh chính là một tên khác của ngu si.
Hỏi: Làm sao để loại bỏ dâm dục ?
Đáp: Nếu đừng nghĩ tới, thì sẽ loại bỏ được. Nếu cứ liên tục nghĩ đến,
thì làm sao bỏ được? Ngay khi những niệm này vừa khởi lên, phải biết rõ nó. Một
khi biết rõ, thì nó biến mất.
Hỏi: Bạch Hòa Thượng, có một số những người mẹ không hôn thú đang
gây ra nhiều vấn nạn xã hội, rồi sau đó là có việc phá thai... Con tự hỏi Hòa
Thượng có ý kiến hay đề nghị gì về vấn đề này.
Đáp: Quý vị đang đề cập về những bà mẹ độc thân. Khổ thay, những người
này đã đánh mất nhân phẩm, vì thế họ không tôn trọng những luật lệ trước khi
lập gia đình. Ngày nay, những người trẻ thích khiêu vũ, xem phim ảnh, và ca
hát. Họ hưởng thụ ăn uống, vui chơi và tìm khoái lạc. Những đam mê và hành vi
dẫn đến sự mất nhân phẩm, đến độ họ không còn ý thức việc họ là con người. Là
người, phải có hành vi của người, nhưng họ lại giống như ma quỉ - lén lút không
tôn trọng luật lệ, muốn thử hết trước khi lập gia đình... và vì thế, họ có
thai. Những chuyện như thế này có thể không có gì quan trọng ở phương Tây,
nhưng ở phương Đông thì thật xấu hổ.
Vấn đề này xảy ra do chỉ do một niệm vô minh: Nam theo đuổi
nữ, nữ tìm kiếm nam... Bởi vì vô minh, nên hành nghiệp theo sau, sau khi hành
nghiệp tạo tác thì có danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ hiện hữu…, tất cả những
thứ này đều tạo tác bởi vô minh. Do mê mờ, tình ái khởi sinh, tiếp theo là dục
vọng muốn nắm bắt (thủ và hữu), và sau đó là nhiều vấn đề khác xuất hiện… cho
đến khi già chết (lão, tử) đến. Toàn bộ chuỗi biến cố này được gọi là Pháp Mười
Hai Nhân Duyên.
Vì người đời không hiểu Mười Hai Nhân Duyên nên, họ làm những việc
trái với đạo lý. Vì vậy vấn nạn của họ càng ngày càng lớn. Cho đến lúc họ mang
thai, sự việc càng trở nên rắc rối hơn khi thay vì dưỡng thai bào để sinh
nở, họ lại phá hủy bào thai lúc thai từ một đến bốn tháng tuổi.
Tội phá thai rất nặng. Quý vị có thể nghĩ chúng chỉ là con ma bé
nhỏ, nhưng những con ma này có những năng lực tâm linh to lớn có thể làm quý vị
chết hay mang những tật bệnh kỳ lạ, làm cho quý vị nói năng lảm nhảm và lẫn lộn
đầu óc đến khi điên dại... Tội phá thai còn nặng hơn tội giết người
lớn. Nếu quý vị không muốn có con, tại sao lại gây ra việc thụ thai? Tại sao
rắc rối như thế? Khổ thay, đàn ông và đàn bà không hiểu đạo lý làm người
nên những vấn đề này mới xảy ra.
Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta cần cung cấp giáo dục về
tình dục cho những người trẻ, và dạy họ đừng dính mắc vào tình ái cho đến khi
khôn lớn trưởng thành; nếu không, họ sẽ gặp những vấn nạn khó khăn. Chúng ta
phải thúc đẩy mạnh mẽ để họ tuân theo những quy tắc này.
Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng
đừng để tình ái xen vào.
Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo. Là
người tu Ðạo, bất luận đối với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì
sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình không phát triển được. Nói một cách rõ ràng
hơn, ái dục là sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh
tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi
biển lớn sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ cần "đoạn dục
khử ái," nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.
Người tu Ðạo đừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục, càng không nên
có hành vi yêu đương. Ðối với bất cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương;
hễ có lòng yêu đương thì gốc khổ không thể tránh được; vì có lòng yêu đương thì
khó thoát vòng sinh tử.
Có người nói: "Con người là động vật có tình cảm, chuyện ăn
uống và dâm dục là việc tự nhiên." Chính bởi vì nhân duyên đó, nên cần
phải tu Ðạo. Trong Kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:
Mình xem những người già như mẹ mình, những người lớn tuổi như chị,
những cô trẻ là em và những đứa nhỏ là con. Hãy Sinh ra lòng độ thoát họ và
diệt trừ những niệm ác.
Là kẻ tu đạo mình phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nếu quả không
có ái, phải chăng khi gặp người khác mình cứ ngậm miệng chẳng để ý đến họ?
Không đúng! Mình không chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đương, nhưng
không sinh ra lòng ruồng ghét kẻ khác, cũng không thể nói rằng: "Bởi vì
tôi không thương người ta nên tôi phải ghét họ." Ðó là điều sai lầm. Như
vậy thì thế nào là đúng? Tức là không thương mà cũng chẳng ghét ai. Không
thương, không ghét chính là Trung-đạo.
Tu hành là tu cái gì? Chính là tu pháp Trung-đạo. Ðối đãi với người
mình luôn luôn bình đẳng, dùng tâm từ bi; nhưng phải luôn cẩn thận, chớ để rớt
vào cạm bẫy ái tình.
Quý-vị nên chú ý! Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nếu có người
gởi cho quý-vị phong thơ tình, quý-vị cảm thấy lòng mình vui mừng, giống như có
con thỏ nhảy nhót, con tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là
chuyện tốt. Sự thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đọa lạc mà thôi.
Quý-vị thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công phu, phải
thật sự hiểu rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô cùng." Từ vô lượng
kiếp tới nay, sở dĩ sinh tử không thể chấm dứt được là vì sao? Chính là bị hai
chữ "ái tình" làm hại. Nếu như mình có thể "đoạn dục khử
ái" thì mới có thể siêu thoát Tam-giới, không còn sinh tử nữa.
Thứ mình thích thì mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi thích,
tức là mình đã sinh lòng yêu thương. Hễ khi ghét lòng mình sinh ra sự ghét hận.
Cả hai thứ, yêu, ghét đều là do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc
không dựa vào tình cảm. Tuy nhiên cũng không thể giống như ông Quan Công, ngồi
chễm chệ trên bàn xử lý, người ta đảnh lễ, ông cũng không thèm nhìn tới. Ðối
với người, mình phải có sự hòa nhã, lễ độ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi
thường kẻ khác.
Tóm lại, đối với người khác mình phải có lòng từ bi, tìm phương
tiện giúp đỡ họ. Lúc nào cũng nên nghĩ đến người khác và khiến họ sinh lòng
hoan hỉ. Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng
đừng để tình ái xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô cùng trọng yếu.
Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm.
Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh.
Hai gốc cậy hiện được lưu giữ tại
Vô Ngôn Đường Vạn Phật Thánh Thành
Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau quá đậm đà nên tạo ra tội nghiệp cũng
hết sức sâu dầy. Ðời đời kiếp kiếp sinh ra trầm luân, đọa lạc vào đường súc sinh,
trở thành ngạ quỷ, cuối cùng đọa địa ngục. Ðến nay đôi vợ chồng nầy biến thành
thảo mộc. Gốc cây nầy đáng lẽ gồm có hai nhánh, nhưng nó lại sinh trưởng cùng
một chỗ, nên mãi mãi ràng buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh
bên trái bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũng nhào sang ôm lấy
nhánh bên trái, giống như đàn ông đàn bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy
rằng đôi nam nữ nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đậm. Ngày
nay chúng thành loại thảo mộc mà cũng không bỏ được lòng si ái đó. Ở giữa hai
gốc nầy có một cục đá, mà hai người nầy quý như châu báu. Cục đá đó là gì?
Nguyên lai nó là trương mục ngân hàng của hai vị đó trong tiền kiếp.Quý-vị xem gốc cây nầy gồm có hai nhánh, song đôi hợp thành một,
nhánh trên nhánh dưới kết hợp với nhau, quý-vị biết đó là gì không? Ðây là do
vô lượng kiếp về trước có một đôi nam nữ thương yêu nhau rất sâu đậm. Hai người
đó phát nguyện rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện
vị liên lý chi." Nghĩa là nếu sinh lên trời thì làm đôi uyên ương hai cánh
liền nhau, nếu sinh dưới đất thì nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy
rất chung tình, nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích giống nhau,
đó là: ham tiền. Người đàn ông thì thí mạng để kiếm tiền, người đàn bà thì
thích phung phí tiền, cho nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.
Mấy năm trước có lần chúng tôi vào thành thuyết Pháp. Khi đi ngang
qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền nhặt đem về. Quý-vị nhìn xem: đầu gốc cây
nầy bị chặt đứt, rễ cũng bị chặt mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song
hai nhánh cây nầy vẫn triền miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không thấy đó đáng
thương xót sao?
Như vậy đủ thấy rằng tình yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây
không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng:
"Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi không thể tin được, bởi vì nó không có chứng
minh, không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao
thôi." Tin hay không là do quý-vị, tôi không có cách nào làm quý-vị tin
được bởi vì đây là Pháp rất khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù
mình có nói cách nào đi nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự
tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh
tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách
gì dứt bỏ thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.
Tục ngữ Trung Hoa có câu rằng: "Khi tay đã cầm cây củi khô
rồi, thì y khó chịu bỏ ra để đổi lấy cành hoa." Ðó là muốn ví dụ những
người luôn luôn chấp trước vào tình yêu. Nếu mình nói với họ rằng, hãy bỏ đi
những thứ luyến ái đó để tu Ðạo là điều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không
muốn quay đầu lại. Rằng:
Thiên vũ tuy khoan, nan nhuận vô căn chi thảo.
Phật môn tuy quảng, nan độ bất tín chi nhân.
Nghĩa là:
Trời mưa rưới nước khắp nơi, song khó tươi nhuận
cây cỏ không gốc.
Cửa Phật tuy rộng thênh thang, mà vẫn khó độ kẻ
chẳng lòng tin.
Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không
muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ
cho thời điểm chín mùi rồi tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa
xôi đến đây để triều bái, tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho
đến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa;
nên bất kể là quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho
quý-vị nghe.
Giảng tối ngày 12 tháng 11, năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành
Nỗi Bất Hạnh của Cửa Phật
Tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... Mật đến
chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật.
Tôi vừa nói cho quý-vị nghe công án của gốc cây đó, quý-vị không
tin cũng chẳng sao. Bây giờ chúng ta thảo luận đến vấn đề sau đây, tuyệt đối
không thể không tin được.
Tại sao con người phải học Phật-pháp? Ðộng cơ tối thượng không
ngoài ý muốn "ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử." Song chẳng may
nhiều người có chí thoát đường mê nhưng lại đi vào đường mê.
Theo Phật-giáo vì muốn thoát luân hồi nhưng bởi chẳng cẩn thận nên
rất dễ rớt vào mê hồn trận. Nếu không biết khéo dùng trạch-pháp-nhãn, sáng suốt
mà lựa Pháp, thì dễ bị những thứ tà tri tà kiến làm mê hoặc, rồi đi làm những
việc không nên làm.
Thí dụ như muốn ly khổ đắc lạc, song lỡ xẩy chân rơi vào cửa địa
ngục. Lại còn những chuyện tệ hại hơn nữa, tức là trong Phật-giáo Mật-tông có
kẻ dạy phương pháp gọi là Song Tu Pháp. Họ nói chỉ cần niệm thần chú gì gì đó,
trai, gái cùng nhau tu pháp "Hoan Hỷ Thiền." Còn nói đó là pháp cao
nhất, không những thỏa mãn được lòng dâm dục, mà còn có thể tức khắc thành
Phật. Song, thành Phật đâu phải dễ dàng như vậy! Nếu không cắt đứt lòng dâm
dục, mà thành Phật, thì rất là vô lý. Trong thiên hạ không có đạo lý nào như
vậy cả.
Ðời nay, đa số con người đều tham tu cho mau cho chóng, thích đi
đường tắt. Hễ nghe nói có phương pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc, rồi rớt
vào lưới ma, tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... mật đến
chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật.
Ðừng cố tình nói dối, đừng làm những chuyện như "bịt tai mà ăn
cắp chuông."
Người xuất gia nhất định phải có một nền tảng tu hành cho vững
vàng. Nền tảng vững vàng là gì? Tức là nghiêm thủ giới luật. Người xuất gia
phải cần học thuộc lòng "Tứ Phân Luận" tức là Luật Sa-di, Luật
Tỳ-kheo, Luật Tỳ-kheo-ni, Kinh Phạm Võng, v.v... rồi nghiên cứu tường tận, thì
mới đủ tư cách làm người xuất gia.
Nếu nền tảng không vững vàng, suốt ngày hết nghĩ đến tiền bạc lại
nghĩ đến sắc dục thì "thân tuy xuất gia, nhưng tâm không nhập đạo."
Như thế thì xa cách đạo trăm ngàn dặm. Những người xuất gia nầy ở trong
Phật-giáo làm chuyện bại hoại, không thể thừa nhận họ là người xuất gia được.
Người xuất gia không được đi phan duyên cái nầy, đi phan duyên cái
khác, cũng không được đơn độc đi ở một ngôi chùa nhỏ, kêu cư sĩ lại hộ pháp.
Ðơn độc tiếp thọ đồ cúng dường, hành vi như vậy không hợp với qui luật của đức
Phật chế định. Nếu như mình có những hành vi nầy, thì phải mau mau sửa đổi, bởi
vì:
Thí chủ nhất lạp mễ, trọng nhược Tu Di Sơn.
Thực liễu bất tu Ðạo, bì mao đãi giác hoàn.
Nghĩa là:
Hạt gạo thí chủ cho, nặng bằng núi Tu Di.
Ăn xong chẳng tu Ðạo, đeo sừng, đội lông trả.
Thuở xưa người chân chính tu đạo, ở nhà tranh, tự mình cày ruộng,
tự mình ăn; tuyệt đối không nhờ vào ngoại duyên. Vì mục đích diệt lòng tham,
nên họ ở nhà lá mà tu hành. Hoặc giả họ bế quan, vì muốn làm cho học vấn và đạo
đức mình được chắc thật. Nếu như chân chính tu Ðạo, thì có thể ở một mình đơn độc,
nhưng không thể đơn độc tiếp thọ sự cúng dường của cư sĩ. Làm vậy là đem
Chính-pháp biến thành Mạt-pháp, cũng là phá hoại Phật-giáo.
Hiện tại người tu hành thích đơn độc tu ở nơi tịnh xá. Tại sao vậy?
Bởi vì nếu họ không giữ giới luật thì chẳng có người nào thấy, phạm qui củ cũng
không có ai biết được, có thể tùy tâm sở dục, muốn làm gì, chẳng có ai quản
thúc, được tự do tự tại, có thể nói rằng không có ràng buộc gì cả. Hoặc giả có
kẻ khác thì ở trong tịnh xá của mình chiêu tập một số cư sĩ, lại nói là làm
pháp này hội nọ, nhưng thực tế chỉ là mượn áo nhà Phật, nhờ vào danh Phật để
kiếm miếng ăn mà thôi.
Có những người xuất gia, không dùng tiền cúng dường của cư sĩ vào
những việc Phật sự, ngược lại lợi dụng tiền đó đi mua những vật xa xỉ, xe hơi,
làm những điều ích lợi riêng tư. Hoặc giả là mua T.V., rồi ngày ngày coi T.V.,
quên lãng cả việc tu hành sớm tối. Hoặc giả là mua tủ lạnh để chứa những thức
ngon vật lạ. Nói tóm lại, họ đắm trước sự hưởng thụ, tham đồ vật, tham sung
sướng. Phong khí hiện tại chính thật là như vậy. Họ đem tính chất khổ hạnh của
Phật-giáo hoàn toàn biến cải, thật là cô phụ sự khổ tâm của Ðức Thích Ca Mâu Ni
Phật xưa kia vậy!
Có người nói: "Sinh ra trong thời đại nầy, mình cần phải coi
T.V., cần phải biết tin tức quốc tế, nếu không thì là đui mù, câm điếc không
biết gì cả." Bạn biết những chuyện ngoài đời rồi thì sao? Biết được chuyện
ngoài đời, đến lúc chết có tránh được chăng?
Có người lại nói: "Người tu hành có thể tránh được cái chết
hay sao?" Bạn tu hành, tới khi chết cũng phải chết, song trước khi chết
tâm mình sáng suốt, tuyệt đối không phiền não, không rối ren, an nhiên mà chết.
Nếu mình không tu hành, tới lúc chết thì cũng chết vậy; nhưng chết một cách hồ
đồ, mơ màng, mê muội. Không nhớ nam, cũng nhớ bắc, lòng không thanh tịnh, ôm
hận mà chết. Ðó là chỗ khác biệt, quý-vị có biết chăng?
Ðối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt,
biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu; rõ ràng không có mơ hồ gì cả, không quên
đi bản lai diện mục của mình. Người không tu hành lúc tới thì mơ màng, khi đi
thì lại càng hồ đồ, cả một đời mê muội. Họ không biết gì lý do gì mình tới, rồi
vì sao đi. Cũng không biết từ đâu lại, rồi đi về đâu. Hoàn toàn mù mịt.
Mục đích xuất gia là liễu sinh thoát tử, không phải vì hưởng thụ.
Nên khi đã đi tu rồi cần gì tham lam vật chất hưởng thụ? Có lòng tham hưởng thụ
thì cần gì xuất gia? Tôi chủ trương rằng bất luận ai muốn đơn độc trụ một ngôi
chùa nhỏ để tìm cách hưởng thụ, thì chi bằng hoàn tục cho rồi. Bởi vì sao? Bởi
vì hoàn tục so với đơn độc trụ một chùa nhỏ tốt hơn nhiều, không tạo nên những
tội nghiệp vừa kể. Ðiểm đó hy vọng quý-vị đại chúng chú ý.
Nói rằng người tu hành đơn độc trụ nơi một chùa nhỏ mục đích không
phải là để tu hành mà tại tham đồ hưởng thụ cúng dường, câu nói đó nhất định có
nhiều người không muốn nghe. Tôi không cần biết quý-vị có muốn nghe hay không,
tôi vẫn nói vì nghĩ đến tiền đồ của Phật-giáo. Nên chi nói ra, khiến người khác
khó chịu. Thêm một lần nữa: "Phàm là người xuất gia thích hưởng thụ, không
có sự tu trì, thì bất quá chỉ đội lốt thầy tu thôi." Hy vọng các đạo hữu
khuyến khích lẫn nhau, nhắc nhở lẫn nhau, đừng cố tình nói dối, đừng làm chuyện
như "Bịt tai mà ăn cắp chuông." Lấy vải thưa che mắt thánh.
Giảng ngày 11 tháng 11 năm 1983
(Vạn Phật Thành ngày 9 tháng 5 năm 1982)
Thế giới có thành, trụ, hoại, không; loài người có sinh, lão, bịnh,
tử; đó là đạo lý tự nhiên. Các vị nên hiểu rõ đạo lý này: thành tức rồi sẽ trụ,
rồi sẽ hoại, rồi sẽ không; sinh rồi sẽ già, rồi sẽ bịnh, rồi sẽ chết. Nếu chẳng
có thành thì chẳng có trụ, chẳng có hoại, chẳng có không; nếu không có sinh thì
cũng không có lão, không có bịnh, không có tử.
Song nếu ta dùng vọng tưởng chấp trước để phân biệt chuyện này, thì
dù phân biệt đến hết mấy đại kiếp cũng không phân biệt rõ ràng được. Phân biệt
bao nhiêu cũng là hồ đồ. Vừa mới hiểu rõ được một chút thì lại hồ đồ, thế nên ở
mãi trong vòng luân hồi không thoát ra được. Nếu muốn thoát luân hồi phải đả
phá cái đạo lộ si mê vọng tưởng này thì tu hành mới thành Ðạo, chứng ngộ bổn
lai Phật quả, xưa nay vốn chẳng chẳng có gì là âu sầu phiền não. Tất cả những
thứ Ngũ trược, Lục trược đều chẳng có. Song loài người không biết buông bỏ cái
giả, nên không nắm được cái chân thật; nên nói rằng:
"Xả bất liễu giả,
Thành bất liễu chân;
Xả bất liễu tử,
Hoán bất liễu sinh".
Dịch là:
"Không vất bỏ cái giả
Sao có được cái thật;
Không buông xả cái chết
Sao đổi thành cái sống?"
Nếu không kiềm chế tính hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính
không bao giờ xuất hiện được. Tự tính bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ
giúp đỡ, có hai tên làm kế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai
là sắc đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai thứ này giúp
đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói rằng: "Thực,
sắc tính dã." Nghĩa là háo ăn, háo sắc đều là bản tính của chúng sinh vậy.
Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá được? Tại sao phiền não cũng
không đoạn được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Ðó chính là do mình có lòng tham
ăn, lòng háo sắc!
Ăn uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô
minh. Con người sinh ra thì biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có
sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh
ra đã có, sau khi có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng tham sắc. Con trai thì
ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, quyến luyến nhau, ham muốn không chịu
buông bỏ, không thể nhìn suốt được. Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến
thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục, cho nên người xưa nói
rằng: "Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn khởi đạo tâm." (No ấm thì nghĩ
chuyện dâm dục, Ðói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.) Khi ăn no rồi, con trai nghĩ
đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi nghèo
thì nghĩ cách trộm cắp, cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại khởi lên.
Thế nên hễ ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì lại chỉ khởi lòng
dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn thật ngon miệng, muốn
ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều làm sao thỏa
mãn được lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc, vì thực. Nếu vô minh không có
thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại được ai.
Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng
tốt nữa. Thế nên đối với vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì
mạng sống mà hành Ðạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng
không ăn những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bịnh; đó là thực hành Trung
Ðạo.
Tôi rất cảm phục một người ở Ðài Loan, vị đó tức là Thủy Quả Hòa
Thượng, (5) Ngài không ham tiền cũng không ham sắc. Ngài chẳng thèm nhìn đến
những phẩm vật người ta cúng dường Ngài. Ðó là việc mà kẻ phàm phu không làm
được, bởi vì không ai có thể buông bỏ được lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài
như tính mạng. Nhưng Ngài thì rất thanh thoát, coi nhẹ tiền tài, lễ vật chất
đống một chỗ ai muốn lấy gì thì lấy, Ngài không để ý tới, và để cho đồ đệ muốn
ăn cắp bao nhiêu tiền cũng được (những kẻ ăn cắp sau này đều hoàn tục). Các vị
thấy đó, phải chăng sau đó Ngài đã quản lý tiền một cách chặt chẽ hơn? Không
phải vậy đâu! Không những Ngài không quản lý tiền bạc, mà ngay đến nhìn, Ngài
cũng không thèm nhìn nữa. Các vị coi Ðịnh lực của Ngài cao như thế nào! Ngài
chỉ ăn trái cây, đậu phụng, không ăn những thức nào có mùi vị hay đồ nấu, xào,
luộc. Bởi vì Ngài không nhập theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho nên
chứng được Sơ Quả. Ngài tu hành cảm ứng rất lớn nên Ngài thường bảo hộ Ðài Loan
này. Có người nhận ra được Ngài là ai, nhưng cũng có người chẳng biết được đức
hạnh của Ngài, do đó nhục mạ Ngài, gọi Ngài là "Á Dương Tăng" (ông
thầy ngu dốt).
Năm nay thân thể Ngài yếu đi nên Ngài chỉ ăn một chút cháo, song có
kẻ lại phỉ báng, nói rằng Ngài đọa lạc rồi. Kỳ thật, những người đó không hiểu
được và họ đã sai lầm. Ăn hay không ăn cháo là chuyện của Ngài, tại sao phải
tìm cách xoi mói Ngài? Nếu như ai ai cũng tu hành như Lão Hòa Thượng Thủy Quả,
chẳng tham chẳng nhiễm, thì Phật Giáo nhất định ngày càng sáng tỏ và phát
triển, Chánh Pháp sẽ trụ thế. Ngài đã làm tôi hết sức hoan hỷ, là vị đồng tu
đồng Ðạo, hợp với tôi lắm vậy.
Không thể nói rằng tất cả ở Vạn Phật Thành đều tốt đẹp, đều là Phật
Pháp cả. Song mọi người ở đây đều y chiếu Phật Pháp mà thi hành, không chú
trọng đến chuyện ăn ngon, mặc đẹp, ở tốt; họ chỉ chú trọng làm sao duy trì cái
thân Tứ Ðại giả hợp này để sống là đủ rồi. Nhu yếu của chúng ta là Pháp, là mùi
vị Pháp Vô thượng. Thế nên mỗi ngày ở Vạn Phật Thành đều có giảng Kinh thuyết
Pháp. Lúc nghe Kinh thì cần phải dũng mãnh tinh tấn, hết lòng mà nghe giảng,
đừng lười biếng. Các vị nghe giảng Kinh không phải vì Sư Phụ, mà nghe là vì
mình mà nghe. Nếu các vị chuyện gì cũng biết thì không cần phải nghe, song
không phải chuyện gì các vị cũng biết cả. Những điều mình biết là thứ Thế Trí
Biện Thông, thứ thông minh có thể biện biệt, thấu đạt chuyện đời của kẻ phàm
phu. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không phải là vì Sư Phụ hay là vì
người khác mà học. Các vị hãy ghi nhớ, đừng để cho thời gian trôi qua vô ích,
rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ.
Tại sao chúng ta có phiền não? Bởi lòng tự tư (ích kỷ). Tại sao có
tự tư? Bởi có dục tâm, mới tìm hết cách để giữ lấy nó, sợ nó đi mất. Nếu nó bị
thương tổn thì sẽ phát ra nóng giận. Tại sao nóng giận? Chính là do vô minh và
tình ái tác quái. Giả thử, không có vô minh, không có tình ái, thì tâm nóng
giận sẽ chạy xa cả ngàn vạn dặm, muốn kiếm nó cũng kiếm không được.
Nếu có tình ái tất có tự tư. Có tâm tự tư rồi thì chẳng còn từ một
thủ đoạn nào để tiến tới mục đích, thậm chí có thể hy sinh cả mạng sống mà
không tiếc thân. Truy ra tận gốc là vì dục niệm. Nếu quả không có dục niệm, tất
không có tâm tự tư. Không có tự tư thì không có phiền não.
Có phiền não, tất có sinh tử; nếu không có phiền não, thì không có sinh
tử. Ý nghĩa này, ai ai cũng biết, có điều không thực hành mà thôi. Phải biết
rằng, không có dục thì không có vô minh. Phá được vô minh thì pháp tính hiển
hiện. Chúng ta học Phật, đầu tiên là trừ vô minh, đoạn phiền não. Dụng công tới
chỗ viên mãn thì chứng được giải thoát.
Tại sao chúng ta không có trí huệ? Bởi vì vô minh. Vô minh sinh ra
dục, dục sinh ra tự tư, tự tư sinh ra phiền não. Tham cầu mà không được thì có
phiền não, người đối với ta không tốt cũng là nguyên nhân của phiền não. Tại
sao có phiền não? Bởi có cái Ngã. Nếu quả là vô ngã, thì không có phiền não.
Nếu có thể tới được chỗ không có vô minh, không có tự tư, thì phiền não sẽ biến
mất. Quý vị tin hay không tin, cái lý nó là như vậy. Thiên kinh vạn điển, nói
tới nói lui cũng chỉ có thế. Cho cái ngã không còn, phá cái vô minh, tiêu diệt
cái dục, thì sẽ không có tự tư, không có phiền não, kiếm phiền não cũng không
kiếm ra được. Tại sao? Bởi gốc gác của vấn đề đã được giải quyết.
Quý vị phải chú ý! Năm thứ dục, tài, sắc, danh, thực, thùy (ngủ),
đều do vô minh và tình ái mang đến. Nếu như không có tình dục, ta sẽ thấy không
có gì là trọng yếu. Bởi có tình dục nên mới cảm thấy cái này không tốt, cái kia
cũng không tốt, cái gì cũng không đúng, đó chính là con quỷ tình dục nó tác
quái. Nếu chúng ta hàng phục được quỷ tình dục này, thì chúng ta vào nhà của
Như Lai một cách mau chóng, lên tòa Như Lai, mặc áo Như Lai và thuyết pháp Như
Lai.
Vô minh tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ ác nghiệp nầy có
thể khiến cho con người điên đảo đến phát cuồng.
1. Tâm tham: Là đối với cảnh thuận, chúng ta sẽ
khởi lòng tham ái đến nỗi không có thì không được. Thậm chí có người vì muốn
được mục đích của mình mà bất chấp các thủ đoạn, bằng không họ chẳng cam lòng.
2. Tâm sân: Là khi gặp cảnh nghịch, chúng ta sẽ
giận hờn và nổi nóng, như không chửi người thì cũng đánh người, thậm chí còn
giết hại người nữa. Đó đều là do tâm sân hận tác quái, nó khiến con người mất
cả lý trí và ý chí xử sự mọi việc. Người có tâm như thế, ắt sẽ làm cho xã hội
chẳng được an ninh, trật tự.
3. Tâm si: Là người không có trí huệ, không biết
phải trái, cũng không phân biệt được thiện ác, cho nên hồ đồ điên đảo, hậu quả
là thành kẻ bất lương, tạo nhiều nghiệp tội.
4. Tâm mạn: Là tự đề cao mình và đè ép người khác.
Tự cho chuyện gì mình cũng hay hơn, nổi bậc hơn người. Thứ hành vi cống cao ngã
mạn nầy là điều tối kỵ, chúng ta không nên có.
5. Tâm nghi: Là người đối với việc chính đáng lại sinh
lòng hoài nghi, không tin lời nói của bất cứ ai. Người có thứ tâm lý như vậy là
bất thường, là sai lầm vì đã tự hạ thấp mình.
Năm loại tâm lý nầy đều là không bình thường, đều là do cái nhân vô
minh dẫn đến. Người tu hành nhất định phải tiêu diệt vô minh, đừng để nó gây
sóng gió thành tai họa vô cùng tận như vậy.
Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào mấy thứ tình
dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian là thật, cho nên họ không thể xa
rời và cũng không nỡ buông bỏ nó. Do đó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc một
cách rối ren mà buông xả không đành. Rồi họ tạo ra biết bao thiện ác lẫn lộn,
họ cũng không phân biệt được giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đời đời kiếp kiếp, họ
cứ quay quanh trong vòng sinh tử luân hồi, vĩnh viễn không bao giờ ngừng. Cho
nên nói vô minh là căn bản của sinh tử.
Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đó đè nặng trong tâm, cho
nên họ dễ được thanh tịnh, giải thoát và hết sinh tử. Nếu không cắt đứt vô
minh, chúng ta vĩnh viễn sẽ bị nó chi phối, để rồi xuống địa ngục, chạy lên núi
đao, hay là vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đầu sao
mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là đã không còn kịp nữa.
Tôi xin khuyên quý vị nên tu hành cho kịp thời, đừng có tưởng là
ngày tháng còn dài mà hẹn lần, hẹn lựa.
Bậc cổ đức có nói: “Đừng đợi đến già mới học đạo, mồ lẻ loi
lắm kẻ thiếu niên.” Học đạo được một ngày là gần được Niết Bàn thêm
một chút. Như vậy từng chút từng chút, quý vị sẽ đến được cõi Niết Bàn. Nếu quý
vị không chuyên cần tu đạo mà lại muốn đến Niết Bàn, thì sẽ không đến được đâu!
Công việc trên đời, dù chúng ta có lãng phí thời gian để làm, rốt cuộc cũng
chẳng được lợi ích gì. Nhưng chỉ có pháp môn tu hành là không lãng phí thời
gian. Nếu quý vị tu được một phút thì được một phút lợi lạc. Cho nên nói: “Gom
cát thành tháp,” tức là từng bước, từng bước không ngừng tiến tới, tự nhiên quý
vị sẽ đến được bờ bên kia.
Giảng ngày 5 tháng 7 năm 1984
Cổ đức có câu: "Thiện ác lưỡng điều đạo, tu đích tu, tạo đích
tạo" (thiện ác hai con đường, đường tu và đường tạo). Ðiều này nói ra hoàn
toàn xác đáng. Tu cái gì? Tu đường thiện. Tạo cái gì? Tạo nghiệp ác. Thiện tri
thức cảnh giác chúng ta mà không bao giờ chán, có điều chúng ta ngu si, không
biết lãnh giáo những điều ngay, cứ việc ta ta làm, chỉ biết lợi cho mình mà không
nghĩ lợi cho người khác và, nói cách khác là chỉ biết tạo nghiệp ác, không tu
thiện, cho nên không thể nào ra khỏi sáu nẻo trong vòng luân hồi.
Ý nghĩ của chúng ta kể ra thì vô lượng, vô biên, vô cùng tận. Niệm
thì chạy lên thiên đàng, niệm thì xuống địa ngục. Vọng tưởng về thiện tức thuộc
phạm vị thiên đàng, vọng tưởng về ác thì thuộc về địa ngục, do đó, chúng ta
nhất cử nhất động, một lời nói một công việc làm, lúc nào cũng phải thận trọng,
từng giờ từng khắc lưu tâm, đâu đâu cũng phải chú ý, trong ngoài như một.
Trông bề ngoài thì hành động rất tốt, nhưng bên trong thì đầy vọng
tưởng, cái đó cũng không mang lại kết quả. Phải làm sao cho trong ngoài như
một, không chạy theo vọng tưởng mới được. Có những người trong tâm thì đầy vọng
tưởng, nghĩ rằng người ngoài không ai biết, rồi cứ như vậy ngày ngày vọng
tưởng, cho đến khi xuống địa ngục cũng mang theo, mà chính mình thì không biết
tại sao đọa địa ngục. Những hạng người như vậy thật đáng thương!
Chúng ta là người tu học, ở chung phải giữ miệng. Ðại chúng ở chung
một nơi, phải đề phòng chuyện thị phi. Có câu nói rất chí lý: "Họa tòng
khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập." Nghĩa là họa do bởi lời từ miệng thốt ra,
bệnh cũng do từ miệng mang vào. Chúng ta không nên bạ đâu nói đấy, cố tránh
chuyện phiền phức, giữ miệng cho kín là tốt hơn cả. Lại có câu: "Thị phi
chỉ vì hay mở miệng, phiền não đều do cưỡng xuất đầu." Ðộc tọa phòng tâm,
nghĩa là khi ngồi một mình chúng ta phải cẩn thận đề phòng tâm ý, chớ theo vọng
tưởng, nhất là các tư tưởng về dâm dục. Người xuất gia càng phải đặc biệt chú
ý, quản lý kỹ càng cái tâm, không cho những tư tưởng vô ích đến quấy nhiễu.
Vọng tưởng thì ai ai cũng có, nhưng khi đã khởi vọng tưởng thì ta
phải vận dụng các phương cách để khống chế, không cho vọng tưởng làm mưa làm
gió. Những phương cách đó là hoặc ngồi thiền, hoặc đi kinh hành hay kiếm một
cái gì khác để làm, sao cho tinh thần tập trung lại thì sẽ không có vọng tưởng.
Người tu đạo, thứ nhất phải phá được cánh cửa sắc dục. Nếu không
phá được nó thì không có hy vọng tu tập thành công. Cả ngày mà đầu óc hồ đồ,
tâm điên đảo, cũng không thành công. Cho nên tôi thực thà nhắn quý vị là chúng
ta phải hàng phục cái tâm này. Hàng phục tâm chính là dứt cái niệm dâm dục. Nếu
không đoạn trừ được nó thì dù tu cho đến muôn đời cũng chẳng khác gì nấu cát để
hòng có cơm ăn, xưa nay chẳng có chuyện đó bao giờ.
Các vị có muốn tu thành quả thánh vô lậu không? Ðoạn dục cắt ái,
thanh tâm quả dục, thì còn có chút hy vọng, nếu không, không hy vọng gì, tốt
hơn là mau mau hoàn tục kẻo lãng phí thời gian!
Bất kể là phái nam hay phái nữ, hoặc giả là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, là người già hay trẻ nít, ai nói đạo lý chánh đáng thì ta
nghe, ai nói không chánh đáng thì đừng có tin, chúng ta nhất định phải có con
mắt chọn pháp (trạch pháp nhãn). Hợp đạo lý thì đi tới, không hợp đạo lý thì
rút lui; chọn điều thiện mà theo, bất thiện thì sửa đổi, đó là quan điểm hết
sức cơ bản của người tu.
Có người biết rõ lỗi của mình mà không sửa đổi, biết mà vẫn làm
quấy. Những hạng người này rất khó giáo hóa, họ chẳng kham nổi Phật pháp, chẳng
thể học gì thêm. Người ta nói: "Gỗ mục khó đẽo gọt, tường bằng phân khó
trét," nếu chính mình không tự giúp cho mình, tự mình coi thường mình, thì
ai còn coi trọng mình, ai còn giúp đỡ mình nữa? Ðó là điều cần phải tự xét cho
kỹ.