Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Ý THỨC LỰC


I- LỜI GIỚI THIỆU

Bài pháp âm có tựa đề Ý Thức Lực, đức Trưởng lão Thích Thông Lạc thuyết giảng cho các tu sinh cách thức luyện tập Ý Thức Lực.
Đối tượng: Tu sinh tu viện Chơn Như
Giai đoạn: 2009 – 2012
Thời gian: Ngày 11/10/2009
Địa điểm: Phòng khách khu A, Tu viện Chơn Như (cổng 2).
Người ghi chép: Tỳ kheo Từ Quang

II- TẠO Ý THỨC LỰC QUA PHÁP TÁC Ý

1- KHÔNG DIỆT Ý THỨC

Hôm nay Thầy gặp các con là để xem các con tu tập có đúng không. Thường sự sắp xếp lớp theo sự tu tập. Trong số các con, có người tu trong các giáo phái Thiền tông hay Tịnh độ tông, trong các giáo phái này mục đích là tu ức chế ý thức của ta, làm cho cái ý thức không còn khởi niệm. Ở đây đạo Phật dạy chúng ta ly dục ly ác pháp chứ không dạy chúng ta ức chế ý thức. Nhớ kỹ điều đó. Khi ly dục ly ác pháp thì tự nhiên nó không niệm. Để tự nhiên cho nó không niệm. Nên nhớ điều này. Chúng ta không chủ trương hết vọng tưởng là thành Phật. Không phải vậy. Ở đây không diệt ý thức của chúng ta. Phải để tâm tự nhiên không niệm khi nó đã ly dục ly ác pháp, chứ không phải ngồi cố gắng giữ tâm bất động cho nó không vọng tưởng bằng cách này hay cách khác; làm vậy là chúng ta đã ức chế tâm. Khi cố gắng giữ tâm không niệm, dù dùng bất cứ cách gì, đối tượng nào thì chúng ta cũng ức chế ý thức, cũng sai pháp.
Muốn tâm không niệm thì chúng ta phải ngồi trong thất, giữ gìn các giới phòng hộ, phải phòng hộ các căn, giữ gìn giới luật cho không hề vi phạm, nhất là giới ĐỘC CƯ, sống một mình, không tiếp duyên với ai hết. Đó là giới luật cần thiết cho chúng ta tu tập.
Đức Phật nói: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Nếu ngồi trong thất mà tâm phóng đi chỗ này chỗ kia, hoặc ra khỏi thất đi lang thang chỗ này chỗ nọ để tâm nhớ nghĩ người này người khác, mặc dù không gặp không nói chuyện với ai nhưng cũng là phóng dật. Pháp của Phật không ức chế ý thức cũng không diệt ý thức mà rèn luyện để ý thức có được lực ý thức bằng pháp tác ý.
Pháp tác ý có công năng tạo thành lực ý thức. Người tu hành không phải diệt ý thức mà tập luyện cho ý thức thành lực ý thức. Tu hành có mục đích làm cho tâm có được lực ý thức, chứ không phải diệt ý thức. Khi tâm có lực ý thức mạnh đúng mức thì nó sẽ làm cho ta có đủ TỨNHƯ Ý TÚC:
˗       Dục Như ÝTúc tức ta muốn cái gì thì thân tâm thực hiện như vậy;
˗       Định Như Ý Túc là ta muốn nhập định nào thì thân tâm ta nhập ngay vào định đó;
˗       Tuệ Như ÝTúc là ta muốn biết cái gì ở bất cứ nơi nào, vào thời gian nào ta đều biết hết;
˗       Tinh Tấn Như Ý Túc làm cho tâm lúc nào cũng ở trong trạng thái tâm bất động thanh thản an lạc vô sự. Tất cả Tứnhư ý túc đều ở trong tâm bất động.
Như bây giờ các con muốn tâm bất động, thanh thản,an lạc, vô sự bằng tác ý, nhưng tâm các con đâu theo các con, thì các con lại dùng một pháp ức chế ý thức để cho nó bất động, thì các con đã sai. Cứ để tự nhiên cho nó khởi niệm hay bất động; không dùng đối tượng nào, không dùng bất kỳ phương pháp nào làm cho nó không niệm, bằng không thì lạc vào các pháp ức chế tâm của ngoại đạo.
Phải để tâm khởi niệm tự nhiên. Càng khởi niệm nhiều càng tốt. Mỗi niệm khởi đều có tính cách của dục và ác pháp, thì tác ý. Mà càng tác ý nhiều thì đương nhiên càng tạo nên lực ý thức. Các con thấy cơ bắp cánh tay co vô duổi ra nhiều thì nó phải mạnh chứ sao; cũng như cái ý thức của ta mà cứ tác ý hoài thì nó phải mạnh chứ sao. Còn các con không chịu tác ý, cứ dùng các cách để giữ tâm bất động thì làm sao tạo nên lực ý thức.
Ta lắng nghe tâm khởi niệm. Khi tâm khởi niệm thì nó có tính cách của dục và ác pháp. Ác pháp là những ý nghĩ như thương ghét, nhớ nhung, lo lắng,… hay tự thấy còn thiếu sót, chưa làm xong điều này điều nọ cần phải về để giải quyết cho xong... Những cái như vậy làm tâm các con bị động, là ác pháp, cho nên phải ly bằng pháp tác ý, chứ không phải ngồi mà ráng cho hết vọng tưởng. Những niệm này chúng ta xem là vọng tưởng, nhưng thật ra chúng chính là ý thức của chúng ta, là trí tuệ của chúng ta, cho nên chúng ta không diệt nó.
Khi tâm bất động,thanh thản,an lạc,vô sự và hoàn toàn thanh tịnh tự nhiên thì trí tuệ đó trở thành tuệ như ý túc của trí tuệ ba minh. Nếu chúng ta diệt ý thức thì nó đâu còn hoạt động, chúng ta không còn suy nghĩ, không còn biết gì nữa; chúng ta trở thành như gốc cây, như tảng đá, không còn hoạt động, không còn suy nghĩ, không còn biết cái gì hết. Cho nên,hằng ngày phải tác ý để sự tác ý trở thành lực ý thức và khi chúng ta muốn biết cái gì thì tuệ của chúng ta biết tất cả, chúng ta mới có ba minh.
Khi tu sai, chúng ta ức chế ý thức cho khôngvọng tưởng thì vất vả lắm nhưng bị lạc thiền, không đi tới đâu cả, mà khi ý thức không làm việc thì tưởng thức sẽ làm việc. Rồi có một chút ít những việc kỳ lạ, những việc lạ lùng thì các con coi là có thần thông. Điều đó là sai, cái thần thông đó chỉ là do tưởng lưu xuất ra. Tránh làm cho tưởng lưu xuất dưới dạng những thần thông. Đó không phải là cứu cánh mà cứu cánh của các con là làm chủ sự sống chết bằng lực ý thức.
Hiện giờ trong số các con đang ngồi đây, có người tác ý thì cơn đau giảm, nhưng đó là ý thức mới ch̉ỉ có chút xíu lực có khả năng đẩy lui được bệnh nhưng không thể tác ý bảo tịnh chỉ hơi thở, bỏ thân này thì nó chưa làm được.
Cho nên,Thầy nhắc nhở các con: Trong sự tu tập hằng ngày, các con phải dùng pháp tác ý, không được ức chế tâm. Có như vậy mới tu không sai, chứ không khéo, bởi theo những thư trình nói con nhiếp tâm như thế này như thế khác, không đúng với cách nhiếp tâm bằng pháp Như lý tác ý mà Thầy đã dạy, thì các con sẽ lọt vào không tưởng.
Khi ý thức bị ngưng hoàn toàn thì không phải nó ở trong không ngơ mà nó lọt vào không tưởng không sao tránh được. Khi tưởng hoạt động thì như người khùng chứ không còn bình thường. Có một số người tu lọt vào trong pháp tưởng rồi nói đủ thứ, làm như mình thông suốt đủ loại. Đó là cái bệnh.
Thầy dạy các con ly dục ly ác pháp như thế nào? Các con ngồi chơi trong thất trong tất cả mọi tư thế oai nghi như ngồi kiết già, ngồi bán già, ngồi dựa lưng trên ghế, rồi nằm, rồi đi, cứ luôn luôn lúc nào cũng quan sát xem tâm có những tâm niệm nào. Cứ luôn luôn quan sát tâm mình. Tâm niệm chỉ mới nhá lên thôi, chưa thành niệm gì cả, nó chỉ mới chớp một cái thôi, ngay khi các con biết thì nó đã lặn rồi và các con cho rằng như vậy là đúng pháp “biết vọng liền buông”, không làm gì cả. Cái cho như vậy là sai, những cái nhá đó là niệm, cứ hiện ra hoài không bao giờ hết niệm đâu, không đúng pháp Phật đâu.
Khi có nhá niệm như vậy, dù cho khi các con biết thì nó đã mất rồi, không còn nữa, nhưng các con cũng phải tác ý Tâm phải bất động, phải không niệm”, “Chỗ này là chỗ tâm bất động, không phải chỗ của mày làm việc”. Đừng bỏ qua bất kỳ cái nhá niệm nào vì đó là niệm. Có niệm là làm tâm động nên phải dẹp niệm đó xuống bằng pháp tác ý. Phải dẹp không cho có niệm nào. Dù chỉ có nhá niệm thôi. Có tác ý thì mới tạo thành lực ý thức.

2- ĐỪNG CỐ GẮNG KÉO DÀI THỜI GIAN BẤT ĐỘNG

Khi các con tu thấy mình ngồi trong 30 phút mà tâm yên lặng, bất động thì đó là đã nắm được tâm bất động. Khi được như vậy thì các con đừng mong, đừng cố gắng kéo dài thời gian làm cho nó bất động. Như bất động được 30 phút rồi ráng cho được một giờ, được một giờ thì ráng cho được hai giờ... Không phải như vậy, không nên làm như vậy, mà cứ để cho nó tự nhiên, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Ba mươi phút cũng được, mười phút cũng được. Hôm nay tâm bất động một giờ mà ngày sau chỉ mười lăm phút, hay nửa giờ cũng đừng cho là bị thối thất, bị tu không tiến bộ. Đừng quan trọng tiến hay lùi. Điểm cốt yếu là tâm phải hoàn toàn bất động trong thời gian đó. Bao lâu cũng được. Không cố định thời gian đã đạt được. Cố gắng đạt cho bằng thời gian đó là đã ức chế tâm. Hôm nay được mười phút thì nó tự bất động trong mười phút đó chứ ta không bắt buộc nó. Mà ngày sau được 30 phút thì nó cũng tự nhiên đạt thời gian đó chứ ta nào có bắt buộc nó đâu. Nó tự như vậy chứ ta không bắt buộc nó, không điều khiển bất động. Hay bữa khác chỉ vài phút là có niệm, mới ngồi đã có niệm rồi, thì cũng chẳng sao. Không vui cũng không buồn. Tại cái tâm mình ly dục ly ác pháp chưa hết nên nó có niệm như vậy. Không cố gắng đạt thời gian đã được bất động nào vì làm vậy là ức chế tâm, ức chế ý thức. Không thể không niệm khi tâm còn dục, khi tâm còn ác pháp.
Vậy thì phải xả tâm ly dục ly ác pháp cho thật sạch thì sẽ không niệm, tâm sẽ bất động. Càng ly dục và ác pháp nhiều thì tâm càng bất động dài lâu. Chỉ cần ly sạch dục và ác pháp thì ngồi xuống, tác ý “Tâm phải bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, tâm liền bất động từ giờ này qua giờ khác rất dễ dàng. Các con tu đúng như vậy thì thời gian chứng đạo chỉ trong vòng một năm hay sáu bảy tháng chứ không kéo dài lâu đâu. Các con đâu tu để trở thành cái gì, mà chỉ tu xả tâm; tu sao cho các con cũng như người bình thường nhưng các ác pháp không tác động vào tâm các con được. Khi mình biết đó là ác pháp thì mình không để cho nó tác động vào tâm. Mình cũng như một người bình thường, nhưng không có ác pháp nào lọt vào tri kiến giải thoát. Có tri kiến về nhân quả, tâm không bị động, không bị xâm chiếm bởi ác pháp. Khi biết đó là ác pháp như giận hờn, thương ghét... thì mình đâu để cho tâm bị động vì hiểu đó là do nhân quả. Bằng tri kiến giải thoát, bằng pháp Như lý tác ý thì khi có ác pháp như giận hờn, thương ghét... tới thì sẽ bị chận ngay từ ngoài cửa, tâm sẽ yên lặng nhờ tri kiến giải thoát, nhờ ý thức giải thoát. Phải tác ý khi có những niệm như thế, đừng cho mình có tri kiến giải thoát là ngon, đã chận nó từ ngoài cổng. Không phải vậy đâu, các niệm như vậy cứ khởi ra hoài, không hết đâu, nó ngầm đó rồi nó sẽ xâm chiếm vô. Cho nên phải tác ý, tác ý cho nó tạo thành cái lực và cuối cùng cái lực đầy đủ thì làm chủ được thân tâm và giải thoát. Cố gắng tu chừng sáu bảy tháng thôi, không lâu đâu. Bền chí, đừng để cho một người nào đến nói chuyện với mình, chỉ sống một mình.

3- CHỈ LO TU CHO BẢN THÂN

Bền chí kiên trì tác ý và có cuộc sống thật sự độc cư, không nói chuyện với ai, không tiếp duyên với ai để giữ tâm không phóng dật thì tâm sẽ không phóng dật. Ai làm gì cũng đừng để ý, đừng phê phán ai, đừng chê cười ai, ai sao kệ họ, chỉ lo tu cho bản thân. Tâm mình rất dễ phóng. Dễ phóng con mắt, dễ phóng lỗ tai, bên kia họ làm cái cộp thì lỗ tai nó nghe, nó phóng ra, điều đó cho thấy cái tâm mình rất dễ phóng. Bên thất của người, họ làm gì cũng kệ họ. Người ta có ngủ gục hay như thế nào cũng đừng có ý kiến gì, đừng quan tâm tới ai cả. Có âm thanh thì bảo tâm hãy quay vô nghe bên trong, đừng nghe cái âm thanh đó. Làm sao tuy sống gần như vầy mà đừng nhìn sang thất của người ta. Có người lấy vải che thất mình để lở mình có ngủ cũng không ai nhìn thấy, không cho ai nhìn thấy gì trong thất. Đó là cái sai. Đừng che chắn gì cả. Không gì cần che dấu ai. Cứ để thất tự nhiên, đừng che chắn gì cả. Khi bị hôn trầm thùy miên thì đứng dậy đi kinh hành, siêng năng đi kinh hành, đi pháp thân hành niệm tác ý từng hành động. Đó là các pháp phá hôn trầm. Ta có đầy đủ các pháp, cứ ôm chặt các pháp thì sẽ phá các ác pháp đó hết.
Còn các vọng tưởng, loạn tưởng, đừng sợ có niệm, đừng sợ có vọng tưởng, đừng ức chế nó, cứ để tự nhiên, chỉ dùng pháp tác ý. Mỗi khi có niệm thì dùng nó làm đối tượng để tác ý. Càng nhiều niệm càng có cơ hội để tác ý. Mà tác ý nhiều thì có lực ý thức.
Các con còn công việc thì giải quyết cho xong rồi vào thất tu. Các con đã biết cách tu, đừng bỏ phí cuộc đời. Sau khi tu xong thì có người biết cách thức tu tập đúng thì những người đó thay thế Thầy.
Được thân người là khó mà gặp được chánh pháp càng khó hơn. Các con cứ nghĩ đi, được thân người và lớn lên như vầy mình khổ mà cha mẹ mình cũng khổ.
Đừng mong cầu có thần thông mà ch̉ỉ mong sao cho tâm mình không có ác pháp nào, không có dục nào xen vào. Bấy nhiêu đó đủ rồi. Rồi từ đó luyện tập xả tâm cho sạch, luyện cho có Tứ Thần Túc, bốn lực như thần. Mọi người đang ngồi trước mặt Thầy, người nào cũng đều có bốn lực đó nhưng không chịu rèn luyện. Các con nên cố gắng. Rèn luyện thì có các lực đó.
Đừng nghĩ rằng tác ý làm tâm động. Không phải vậy đâu. Chính tác ý là ý thức làm chủ. Bây giờ các con ngồi bất động mà không tác ý thì các con tu riết thành gốc cây thôi, bất động trở thành gốc cây, trở thành cục đá thôi, trở thành cái băng ngồi rồi. Nó không cục kịch, không nói, không nghĩ gì cả. Ngồi bất động mà không biết gì cả, thì tu để làm cái gì?
Chỉ ngồi đó mà không nghĩ gì được hết, vậy thì tu để làm cái gì? Cho nên, chúng ta tu là làm chủ thân tâm. Làm chủ tâm có nghĩa là dù ai nói gì cũng không giận, không hờn, ai đem cái gì cám dỗ mình cũng không ham muốn gì hết. Làm chủ thân là khi già không bị run rẫy yếu đuối, không bị đau nhức chỗ này chỗ kia như một người già bình thường run rẫy sợ té khi đi đứng. Người già là cả ổ bệnh. Người già có tu thì thân già không có những cái khổ đó. Bởi khi có cảm thọ thì tác ý đuổi cảm thọ đi. Chỉ cần tác ý thì không có những cái khổ đó.
Lực ý thức mạnh thì sẽ đuổi sạch tất cả mọi cảm thọ. Tu tập là tu tập làm chủ già, làm chủ bệnh. Lực ý thức mạnh thì bảo thân phải nghe. Có lực ý thức mạnh thì dùng lực ý thức điều khiển thân không bệnh, làm chủ già. Khi làm chủ già và bệnh được rồi thì làm chủ cái chết, muốn chết là chết, bảo cái thân này ngưng thở thì nó ngưng thở liền. Các con bảo thì thân các con không làm được chứ Thầy bảo thì nó làm ngay. Thân của mình mà bảo sao thì nó nghe như vậy. Hạnh phúc vô cùng!
Cố gắng duy trì cho được chánh pháp của Phật để cho con đường Phật pháp nó còn. Chỉ có Phật pháp mới có con đường này. Con đường làm chủ bốn nổi khổ sanh, già, bệnh, chết thì chỉ có đạo Phật mới có con đường này chứ các tôn giáo thì có rất nhiều nhưng có tôn giáo nào làm chủ được bốn cái khổ này đâu. Như Hồi giáo, như Thiên Chúa giáo, Lạt ma giáo, Đại Thừa giáo, Thiền tông... có tôn giáo nào có pháp nào làm chủ bốn sự đau khổ sanh già bệnh chết đâu? Chỉ có đạo Phật mới làm được những điều này. Cho nên, Thầy còn sống đây là để giúp cho con người có kinh nghiệm này biết cách làm chủ bốn sự đau khổ đó. Chỉ đạo Phật mới đem lại sự làm chủ này chứ các tôn giáo khác chủ trương có thần thông hay có cõi trời này kia và khi nào người nào sống thiện, làm thiện thì khi chết sẽ được rút về cõi trời đó. Hay liều chết để bảo vệ tôn giáo của mình như trong các cuộc thánh chiến, bị chết thì sẽ lên cõi trời đó. Tinh thần đó rất mạnh, chứ không phải làm thiện để cứu chúng ta đâu, chỉ là mơ tưởng sự giải thoát theo hướng như vậy.

4- CẮT ÁI LY GIA

Trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản, Phật nói ba mươi ba cõi trời chỉ là tưởng ra thôi, không có thật, chỉ có con người do duyên thọ sanh mà có. Chúng ta sống trong duyên hợp. Hợp rồi tan rã. Pháp của Phật chỉ nhắm làm chủ sanh,già,bệnh,chết; nhằm phá vỡdây xích 12 nhân duyên bằng sự làm chủ ý thức. Chỉ có con người mới có ý thức làm chủ bốn sự sanh,già,bệnh,chết. Trong mười hai duyên có bốn cửa vào để phá vỡcác mắtxích của 12 nhân duyên. Tu sĩ là người đi vào cửa SANH của 12 nhân duyên để phá dây xích này, là cửa các con đã đi vào. Vào cửa sanh thì phải bỏ hết, phải cắt ái ly gia, phải quyết tu cho tới nơi tới chốn. Nếu còn lui tới thăm gia đình hay còn để phật tử tới lui thăm viếng thì không cách nào tu thành công. Không đúng với Phật giáo, không cắt ái ly gia là tu sai pháp Phật. Tu phải thành công, phải tu cho tới nơi tới chốn, rồi mới nói chuyện với gia đình, với phật tử để giúp họ tu.
Ra khỏi tu viện, ra khỏi chùa thì phải làm chủ được bốn sự khổ đau đó của kiếp người, phải làm chủ luân hồi, phải chấm dứt luân hồi. Nếu chưa làm được mà đi ra nói mình thanh tịnh như vầy hay như khác, tôi ngồi một hai giờ không có vọng tưởng thì đó là không đúng, chỉ có ngoại đạo thôi, không đúng của đạo Phật.
Cho nên,các con nhớ kỹ: Phải dùng pháp tác ý khi có niệm, càng có niệm thì càng tác ý để rèn luyện cái tâm của mình. Khi không có niệm thì không tác ý nhưng tâm không được trụ vào đâu hết, vì chỗ trụ là chỗ ý thức của ta bám vào, cột vào chỗ đó. Nhớ kỹ: Có niệm thì tác ý, không niệm thì ngồi chơi chờ niệm.

5- TRỤ TÂM VÀO THÂN

Khi không niệm thì chỉ trụ tâm vào thân, đừng trụ tâm vào đâu hết, đừng trụ tâm vào hơi thở, đừng nương hơi thở theo kiểu quán hơi thở. Chỉ có một chỗ trụ không sai, đó là trên thân quán thân. Khi bất động tự nhiên thì các con cảm thấy như thế nào? Các con thấy cảm nhận toàn thân trong từng hơi thở ra vào rất nhẹ nhàng nhưng các con không được trụ trong hơi thở cũng không được trụ trong không. Tâm không phóng dật ra ngoài thì nó phải ở trên thân chứ sao, mà trên thân thì nó phải biết thân chứ. Thì đó là cái ý thức của chúng ta đang quay vô biết thân nó.
Trong khi đó chúng ta không dùng trên thân quán thân để ức chế nó, mà chúng ta để tự nhiên. Coi nó quán thân lâu mau như thế nào. Khi không quán thân mà tâm ở trên thân một cách tự nhiên thì cứ để như vậy. Hoàn toàn tự nhiên, không dụng ý, không dụng công buộc tâm ở yên một nơi nào.
Không nhiếp tâm vào đâu hết. Không nhiếp tâm vào hơi thở, vào thân hay thân hành nào. Nó đang tự nhiên ở trên thân thì cứ để cho nó ở tự nhiên như thế, chỉ biết thật rõ là nó không bị ý thức của chúng ta buộc nó nhiếp vào thân hay thân hành nào bằng sự chú ý của chúng ta. Làm được vậy, giữ được vậy thì tâm sẽ từ từ ở trên thân dài lâu mà vẫn tự nhiên chứ không cần có dụng công dưới hình thức nào. 
Các con phải tự khép chặt đời sống độc cư của các con thì nó mới quán thân thật sự. Nếu còn nếp sống tiếp duyên, còn nói chuyện, còn nhìn ngó ra ngoài, còn phóng dật... mà dụng công dùng tâm quán thân là bị ức chế. Tâm ở trên thân lâu dài hay chỉ một chốc cũng không sao, vẫn tốt. Bởi tứ niệm xứ là hành động tự nhiên, chứ không phải dùng thân để quán. Trong tám chánh đạo, Phật nói Chánh Niệm là Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ là phải tự nhiên không một chút gì ức chế, nhưng mình phải sống trong thất, không phóng dật thì tâm mới ở trên thân. Mà ở trên thân thì tâm phải cảm nhận toàn thân chứ không trụ tâm vào đâu hết.
Nếu theo thói quen tập trung một chỗ nào thì sai. Tâm chỉ biết duy nhất hơi thở là sai. Không được tập trung tâm trong hơi thở. Không được dùng thân để quán. Nếu trong khi giữ tâm bất động mà chỗ nào trên thân có cảm thọ khác lạ là bởi có sự tập trung vào chỗ đó, phải xả ra. Phải để nó tự nhiên. Nếu bây giờ chỉ biết duy nhất hơi thở là sai. Không phải tu hơi thở, mà tu pháp tác ý.
Mới vào tu thì tu ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ “Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tập một thời gian để mình rèn luyện sự hô hấp, thở hơi thở như thế nào, dài hay ngắn cũng được, không bị rối loạn, không bị có khó chịu trên cơ thể. Rồi nương vào hơi thở để Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si. Rồi Quán từ bỏ...”, “Quán đoạn diệt.... Đó là pháp tu của người mới tập tu, mới vào tu. Người mới vô không thể ngồi quét được, không quét nỗi, cho nên phải dùng các đề mục định niệm hơi thở để quán sát tâm, xả bớt các dạng thô tham sân si, bằng không thì bị ức chế. Vì vậy, phải bằng phương pháp xả tham sân si thô qua 19 đề mục của định niệm hơi thở. Sau khi tu thuần thục các đề mục định niệm hơi thở rồi, khi đó ngồi lại thấy tâm mình im lặng bất động một cách thản nhiên rồi thì mới bắt đầu vào tu Tứ niệm xứ.
Các con tu đã lâu, đã sống độc cư được rồi thì dùng pháp tác ý để quét từng cái tâm niệm vi tế tham sân si. Tâm niệm tham sân si vi tế là khi người nào nói oan ức gì, mặc dù các con thản nhiên nhưng trong tâm còn những tham sân si vi tế. Chỉ có pháp tác ý mới quét, mới diệt hết các vi tế này, cho nên tâm mới thanh tịnh hoàn toàn. Thầy thấy ở đây có một số người sống độc cư tu tập tốt, cho nên khi đã sống không còn buồn khổ trong giai đoạn độc cư thì tới giai đoạn kế là giai đoạn xả ra, giữ tâm bất động. Cứ cố gắng tiếp tục phòng hộ các căn, giữ hạnh độc cư cho nghiêm. Trong khi đi, đứng, ngồi, nằm đều dùng pháp Như lý tác ý, đừng vì bất kỳ lí do gì mà phá hạnh độc cư, mà không phòng hộ các căn, đừng cố gắng giữ tâm bất động mà cứ để tự nhiên và có tư tưởng ý nghĩ nào thì chỉ dùng pháp Như lý tác ý. Trong thời gian này, những người đó phải sống trong khu vực môi trường giúp họ giữ tâm bất động, không tiếp duyên, không bị động. Sống ly dục ly ác pháp thật sự thì tâm sẽ ở trên thân. Cho nên, khi các con muốn để tự nhiên cho tâm quán thân được thì các con phải khép chặt đời sống độc cư, không phóng dật. Nếu còn sống phóng dật, còn tiếp duyên mà dụng công cho tâm quán thân là các con đã dùng ý thức ức chế ý thức, là sai.

6- SỐNG ĐỘC CƯ

Nếu ai sống độc cư một hơi năm mười ngày rồi chạy ra gặp người này người kia hỏi, không hỏi nhiều, như bữa nay cơm nước cho ăn cái gì đây? Là không được. Bây giờ hỏi tới“Không biết Thầy bây giờ có khỏe không?”đó cũng là phóng dật. Hỏi thăm về bất cứ chuyện gì cũng là tâm phóng dật. Hỏi thăm Thầy cũng là phóng dật. Phải coi như là mình vô tình. Dù Thầy có chết, đó là việc thường, cũng không vì vậy phá hạnh độc cư. Thầy có tịch thì Thầy cũng đã thu xếp mọi việc, chuẩn bị đầy đủ, sẽ rất tự tại. Thầy sẽ nhập định để không bị vi khuẩn làm hư thối. Thân nhập định sẽ có từ trường bảo vệ không hư thối, không bị vi khuẩn phá. Nhưng để lại nhục thân làm gì. Như nhục thân của Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Tường ở chùa Đậu - Hà Nội, ngoài Bắc, người ta vẫn làm tiền được. Cho nên, Thầy chết thì đem chôn hay thiêu đốt, không tốn kém, không để lại gì cả.
Các con ai tu làm chủ sống chết được thì đừng để lại nhục thân làm gì, không khéo người ta sẽ khai thác để làm tiền, chỉ như Phật và các vị trưởng lão khác. Đừng làm động xóm làng, đừng để lại cái gì cho người sống làm tiền người sống. Khi chết rồi thì nên thiêu đốt, chôn cất, không để lại cái gì cả. Cái mà chúng ta phải làm cho được là khi tu chúng ta không để thân bị bệnh đau, không để tâm bị phiền não giận hờn ai. Đó là cái mà chúng ta phải làm cho được, phải tu hành cho được.

7- RÈN LUYỆN PHÁP TÁC Ý

Hôm nay Thầy nhắc nhở các con là phải rèn luyện pháp Như lý tác ý. Có bất kỳ niệm nào, hoặc thân thể không tự nhiên thì không thể không tác ý. Có niệm nào làm tâm các con bị động thì: “Tâm bất động”,tác ý đuổi đi. Chỉ tác ý thôi thì nó sẽ đi. Có niệm gì khởi trong đầu thì: “Tâm bất động, không có niệm gì vô đây”. Rồi ngồi yên. Có niệm nào vô thì tác ý đuổi nữa. Hằng ngày không cần biết đã tác ý đuổi bao nhiêu lần. Cứ có niệm thì tác ý đuổi. Không có thì ngồi chơi chờ niệm khác tới.
Không ghi chép gì cả. Ghi chép công phu tu tập là phóng dật. Dẹp đi. Không ghi chép gì hết. Viết là phóng dật. Viết thơ cho Thầy cũng phóng dật. Có gì bất thường trong khi tu tập thì nhờ người thưa hỏi Thầy, nhờ chú Mật Hạnh cho nam, hoặc nhờ cô Trang cho nữ. Tự mình suy nghiệm với sự giúp đỡ của Thầy thì sẽ tu đến nơi đến chốn. Nhớ là đừng tự mình kiến giải rồi tu. Rất nguy hiểm vì sẽ dẫn vào đường sai. Bởi người muốn tu để giải thoát thì trước khi xuất gia đi tu thường hay tìm hiểu các pháp, tu tập các pháp, nhưng có pháp nào không khoe pháp mình hay, và đã có tu tập pháp này hay pháp khác. Thầy rất lo là vì các pháp đó Thầy đã từng trải qua. Thầy đã từng trải qua một số pháp như pháp luyện thần thông bằng mật chú trong Mật tông đạt được thần lực, do người cha của Thầy là một Sư Mật tông, chân truyền lại. Mật tông thì tỉnh Tây Ninh sát biên giới với Campuchia nên pháp luyện thần chú từ trên đó truyền về và người Việt thường vào Núi Cậu tu tập, còn núi Bà thì động vì người ta đi trẩy hội, đi thăm viếng.
Rồi pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông theo Hòa Thượng Thiện Hòa, trước là Viện Chủ chùa Ấn Quang ở thành phố Hồ Chí Minh, là thầy của Thầy,Thầycũng niệm Phật nhất tâm như Hòa Thượng. Rồi tu theo Thiền tông của Hòa thượng Thanh Từ, cũng tu rốt ráo pháp “Tri vọng”, nhập được Không vô biên xứ rồi Thức vô biên xứ. Nói chung nhiều môn phái Phật giáo trong nước Việt nam, Thầy đã từng tu thật nhiệt tâm trong các tông pháp đó.
Đất Tây Ninh là địa linh, có nhiều may mắn bình yên, không có thiên tai bão lụt, không có bị động vì duyên bất trắc, vị trí tốt cho người tu muốn tu. Thầy tu xả tâm được cũng tại đất Tây Ninh này. Có người bám chỗ bất an sống, không chịu di dời dù nó như thế nào. Khi mình yêu thương quê hương của mình cũng là bị ái kiết sử. Thầy coi mọi miền đất nước như nhau, dễ dàng sống tại nơi nào, dù là Hòn Sơn hay Bà Rịa Vũng Tàu. Cho nên, khi các con có duyên phước về đây tu thì nên cố gắng tu.
Các con tu lâu rồi thì pháp Như lý tác ý là pháp sẽ tạo cho các con lực ý thức. Còn các con mới về thì hãy cho Thầy biết để Thầy dạy cho các con từ căn bản của 19 đề mục định niệm hơi thở làm sao cho nhiếp tâm và an trú tâm trên thân hành theo các đề mục này và xả tâm bằng phương pháp của định niệm hơi thở. Sau đó mới qua tu pháp giữ tâm bất động bằng pháp tác ý. Không theo tuần tự trình độ đó, các con mới về mà đóng cửa thất tu tác ý thì bị ức chế, rồi tìm cách làm cho các con bị phóng dật.
Các con tu lâu rồi thì suốt ngày không làm gì cả. Trong thất người ta bày biện các thứ như thế nào thì kệ người ta. Người ta thu xếp, bày biện như thế nào thì cứ để vậy. Đừng sửa đổi, thay đổi gì hết. Cứ để y như cũ mọi thứ, đừng thay đổi vị trí của nó. Nếu thay đổi là làm theo ý riêng tư của mình, là làm theo dục. Sửa đổi theo ý mình là còn dục. Thực hiện theo ý mình là có dục tức có ý mình muốn mà còn làm theo ý đó thì lại càng bị dục chi phối, không tỉnhgiác để nhận ra cái ý đó của mình, nó biểu hiện của dục mà làm theo ý đó là chạy theo dục. Những sắp đặt trong thất có ý nghĩa của sự sắp xếp, có ý nghĩa phù hợp của việc trang trí nội thất, đừng sửa đổi, thay đổi. Nhớ như vậy. Đừng làm gì cả là không bị dục chi phối, không bị dục sai sử, không bị dục điều khiển. Đó là tâm không phóng dật.
Đừng ghi chép công phu tu tập. Không phải giờ này là lúc làm thơ văn. Ghi chép là làm văn, viết văn là phóng dật. Có gì nghi ngờ thì thưa hỏi Thầy. Đừng ghi chép gì cả vì những ghi chép chỉ là cóp nhặt trong trong kinh, hay nhớ những lời giảng của Thầy rồi chép ra, làm như của mình mà thật ra không phải là công phu tu tập của riêng bản thân, chỉ là cóp nhặt của người khác, là ăn cắp của người khác. Khi tu xong rồi mới viết theo những gì mình thật sự biết,cho nên không sai.
Số các con hiện ngồi đây tuy ít nhưng tu có kết quả là tốt hơn nhiều mà không có kết quả nào. Như Thầy hiện giờ đã biết lúc nào thì Thầy sẽ tịch, sẽ đi, nhưng chờ có người tu chứng thay thế Thầy mà chờ hoài mõi mòn chưa thấy ai, mà các con thì tóc đã bạc, có thể các con chết trước Thầy. 

8- TÂM THANH TỊNH, TÂM BẤT ĐỘNG

Khi tu xong thì mọi việc đều vất vả, dù là ngồi ăn thì phải nhai nuốt cũng vất vả. Thà là ngồi bất động, không làm gì cả, không hao gì cả. Khi tiếp duyên với các con thì cơ thể bị hao năng lượng. Nói chuyện cũng hao năng lượng, cho nên Thầy ít tiếp duyên, ít nói chuyện.
Khi tâm thanh tịnh thì không đắm nhiễm trong các việc ăn ngủ nghỉ. Thân tâm đã thanh tịnh rồi thì không còn bất tịnh. Cho nên, dù ở tuổi nào mà thân tâm thanh tịnh thì mọi người, kể cả người phụ nữ cũng không còn bất tịnh.
Tâm đã trong sạch nên tới bữa ăn không còn ô nhiễm ăn uống nữa. Tâm còn phiền não giận hờn thì biết mình chưa thanh tịnh. Thân tâm bất tịnh là do chưa ly dục. Khi đã ly dục sạch rồi thì làm sao còn bất tịnh. Mà tâm đã thanh tịnh thì không thể trở lại mất thanh tịnh được. Từ lúc tâm được bất động rồi thì bao lâu đi nữa tâm cũng vẫn bất động. Bất động cứ kéo dài. Bất động tức là thân tâm đã thanh tịnh. Ngồi yên bất động trong nhập định thì không bị hao, không bị mất gì cả vì đã có từ trường Định che chở và có Thiền duyệt thực. Cho nên, Thầy có thể ngồi yên bất động trong bao lâu cũng được, không bị tiêu hao hình vóc cơ thể bởi lẽ năng lượng được các lỗ chân lông thu hút trong không khí bù đắp cho sự sống của Thầy trong khoảng thời gian đó. Sự sống có trong không khí làm cho Thầy vẫn sống bình thường. Chỉ có pháp Tứ Thiền mới tịnh chỉ hơi thở nhưng hơi ấm còn, sống bằng hơi ấm mới không cần ăn mà vẫn sống. Các pháp thiền khác không tịnh chỉ hơi thở được.
Người chưa nhập định được thì đừng nghe nói vậy rồi nhịn ăn. Khi chưa nhập được Tứ Thánh Định thì phải có ăn mới sống. Tu viện không dạy nhịn ăn, không dạy tiết thực, chỉ dạy pháp Phật tu cho tâm bất động để làm chủ sự sống chết. Cho nên, các con cố gắng tu sao cho có tâm bất động, rồi ở trên tâm bất động nhờ phương pháp tác ý hằng ngày thì lúc nào cũng ở trên tâm bất động và khi tâm bất động ở trên tứ niệm xứ đủ bảy ngày đêm thì có đủ tứ như ý trong đó có định như ý. Chỉ có vậy thôi. Muốn được vậy thì phải ở trong thất và suốt ngày lo việc đuổi các niệm bằng pháp tác ý với thời gian bảy tháng. Cứ tác ý, tác ý hoài cho đến khi tâm bất động. Các niệm ác pháp sạch thì tâm tự nhiên bất động, không cách nào không bất động, muốn không bất động cũng không được.
Một khi tâm đã được bất động do kết quả của pháp tác ý sạch các dục, tâm thanh tịnh, không còn các chấp thủ, thì sự bất động kéo dài mãi đến bao nhiêu lâu tâm vẫn bất động. Đúng trạng thái bất động đó thì bao nhiêu lâu tâm cũng vẫn bất động. Bao nhiêu lâu, bao nhiêu năm cũng bất động, sống trong trạng thái bất động.
Khi tâm vừa bất động đủ bảy ngày đêm thì các con đã có đủ Tứ Thần Túc rồi, đã sống trong trạng thái bất động rồi. Không phải các con cố gắng kéo dài trạng thái bất động mà phải tác ý cho sạch các niệm thì tâm tự nhiên bất động, không còn động nữa. Nếu các con cố gắng bằng cách này hay cách khác kéo dài trạng thái tâm bất động là ức chế tâm. Phải tác ý mỗi khi có niệm và để tự nhiên cho tâm tự bất động.
Hiện giờ các con chỉ là người vô sự nhưng hầu như tâm chưa vô sự, cho nên cần cố gắng nhiều hơn để đạt cho được tâm vô sự. Chừng nào thật sự là vô sự thì các con sẽ thấy tâm các con ở đâu. Cho nên, bây giờ các con cố gắng nghe lời Thầy cứ tác ý cho giai đoạn của các con hiện giờ. 
Tu sĩ hay cư sĩ cũng đều giải thoát y như nhau, không phải chỉ có người tu sĩ mới giải thoát, nhưng người cư sĩ phải tu như người tu sĩ, còn người tu sĩ phải giữ hạnh cho đúng người tu sĩ chứ không phải chỉ có chiếc áo thôi mà tâm thì cứ phóng ra, phóng dật hoài. Có nhiều vị tu sĩ lẽ ra khi đã ly gia cắt ái thì phải ở lì trong một tu viện nào đó để cố công tu, phải cắt đứt hết mọi liên hệ với người ngoài đời, với bà con, với phật tử.

9- LÀM CHỦ NIỆM

Hôm nay Thầy nhắc nhở các con pháp Như lý tác ý, đừng dùng bất cứ pháp nào ức chế tâm hết. Khi các con cố gắng ức chế tâm, các con không cho có vọng tưởng trong 30 phút hay một giờ là trật. Có vọng tưởng thì tác ý. Có vọng tưởng thì tác ý. Dù chỉ trong một phút mà có vọng tưởng là tốt vì khi biết tâm đang có niệm là ý thức vẫn hoạt động, chúng ta tác ý cho diệt niệm đó. Đó là đúng pháp. Chúng ta đang làm việc bằng ý thức. Chúng ta phải làm việc bằng ý thức. Cứ có niệm thì tác ý. Ý thức này khởi ra thì ý thức khác làm lắng xuống. Từ một phút không có niệm, rồi hai phút, ba phút,... kéo dài ngày càng lâu. Ý thức đánh ý thức. Ý thức làm lắng yên ý thức. Niệm trong đầu chúng ta tự động khởi ra là do tâm tham,sân,si,mạn,nghi, là dục. Khi chúng ta tác ý là cái ý thức của chúng ta làm chủ cái niệm đó, không cho nó làm cái việc tham,sân,si,mạn,nghi nữa, cho nên chúng ta tác ý là chúng ta dùng ý thức diệt ý vọng. Cuối cùng chúng ta còn cái ý chủ động và cái ý chủ động này làm chủ hoàn toàn thân tâm. Nhớ chỉ dùng pháp tác ý, không dùng pháp ức chế tâm cho không khởi niệm. Tác ý cho nhiều. Hằng ngày ngồi không mà tác ý, không phải ngồi chơi mà làm việc rất nhiều với tác ý trong trạng thái hết sức tỉnh táo. Đến giờ ngủ mà tỉnh táo không ngủ thì ôm tâm bất động. Dù cảm thấy mệt cũng không nao núng, cứ ôm pháp tác ý tác ý mỗi khi có niệm. Càng thức thì cứ ôm tâm bất động tu hoài cho đến lúc không còn cảm thấy mệt mỏigì cả. Đừng bảo ngủ. Đừng sợ mất ngủ, mà chỉ sợ ngủ nhiều.
Suốt đêm không ngủ không chết đâu. Đừng sợ! Bệnhđau còn không sợ thì mất ngủ có nhằm gì. Bảo ngủ là bảo si thêm, si thêm là không được. Tâm si từ từ đoạn diệt trong khi tu tâm bất động thì thân không còn buồn ng̉ủ. Cơ thể không còn ham ngủ nữa là tốt. Càng ít ngủ càng có điều kiện để tu trong thời gian không ngủ. Tu riết sẽ không còn mệt nữa, không buồn ngủ mà không cảm thấy mệt. Đừng sợ mất ngủ mà chỉ sợ ngủ nhiều. Như Thầy suốt đêm không ngủ có sao đâu.
Nằm đây mà ai làm gì Thầy cũng biết vì trong tâm bất động. Còn ngủ là mất tiêu không còn biết gì cả. Ngủ nhiều là si nhiều. Mất ngủ không chết đâu, như Thầy già rồi mà không ngủ Thầy đâu có chết. Người lớn tuổi ít ngủ là phải coi chừng gần ngày chết nếu không tu, vì không ngủ thì sức khỏe kém nên bệnhtrong ổ bệnhđổ ra; già là một ổ bệnh; còn người lớn tuổi có tu thì không sao. Người trẻ tuổi thì cần ngủ, sức còn dài nên mê ngủ. Ngủ để phục hồi năng lượng cho sức khỏe. Nhưng chỉ ngủ trong những giờ nghỉ chứ còn giờ tu thì không được ngủ, nếu buồn ngủ thì đi kinh hành. Tu xong thì không còn dục nào nên không có gì tác động tâm nên không còn buồn ngủ. Như Thầy suốt đêm không ngủ có sao đâu, không buồn ngủ thì ngủ để làm gì; người đời thì ham ngủ chứ người tu xong đâu cần ngủ, chỉ nằm nghỉ thôi. Nằm đây mà ai làm gì cũng biết trong cái tâm bất động. Có bệnh thì dùng pháp tác ý đuổi đi. Người không tu thì mất ngủ là điều báo trước sẽ sắp chết. Ngủ thì sức khỏe còn tốt còn không ngủ thì sức khỏe bị kém, sẽ sinh bệnhvà sẽ chết.

10- NHẮC LẠI

Không theo các pháp ức chế tâm của các môn phái nào. Tu tập là phải có ý thức, đừng ức chế ý thức, vì ý làm chủ, ý dẫn đầu mọi pháp, ý tạo tác. Cho nên, các con không được diệt ý thức. Đừng bắt chước Thiền tông biết vọng liền buông; buông hết vọng là pháp diệt ý thức, Tịnh độ tông niệm Phật nhất tâm bất loạn cũng là pháp diệt ý thức để tưởng thức hoạt động.
Chúng ta tu lúc nào cũng dùng ý thức tu tập để ly dục ly ác pháp. Lúc nào cũng dùng pháp Như lý tác ý để sự tác ý tạo thành lực ý thức. Trong tâm chúng ta lúc nào cũng có hai loại ý thức là ý thức đúng hay ý thức thiện và ý thức sai là ý thức ác của tham sân si. Lấy ý thức thiện diệt ý thức ác tham sân si. Làm cho sanh và tăng trưởng ý thức thiện là làm cho ý thức thiện có lực thì ý thức thiện ngăn và diệt ý thức ác tham sân si; làm cho hết tham sân si. Lấy ý thức đúng diệt ý thức sai. Trong tâm chúng ta có hai loại ý thức: thiện và ác. Ác thì diệt, thì ngăn chặn mà ý thức thiện thì tăng trưởng, sanh trưởng. Đó là pháp Tứ Chánh Cần: Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Tu như vậy mới đúng pháp, chúng ta dùng pháp Như lý tác ý là đúng lời dạy của Phật. Phật dạy“Ý chủ, ý tạo tác. Ý dẫn đầu mọi pháp”, vậy thì lúc nào cũng dùng ý thức tu tập, phải do ý chủ động trong khi tu. Bây giờ các con về thất tu, không đi qua lại thất của ai hết. Trong giờ đi khất thực thì người ở xa đi trước, người xa kế đi sau, và người ở gần nhất đi sau chót.

III- VẤN ĐẠO

1- TÂM KHÔNG NIỆM

Có niệm thì tác ý, không có niệm thì ngồi yên lặng. Không dùng phương pháp nào ức chế để làm cho tâm không niệm. Khi tâm không niệm thì cái biết là cái tâm ở chỗ nào? Nếu nó biết trên toàn thân là đúng, còn nó bám duy nhất bất kỳ một chỗ khác của thân là sai. Thí dụ nó bám ở màng tang, hay ở đỉnh đầu, hay ở hơi thở... là không đúng. Nó phải cảm nhận từ chân lên đầu, từ đầu xuống chân là đúng, lúc đó là lúc nó bám tứ niệm xứ. Mà khi nó ở trên toàn thân thì nó phải biết động dụng nào của thân rõ nhất, thí dụ ngồi yên thì nó biết hơi thở; mà nếu thân có động dụng nào khác thì nó theo và biết động dụng đó.

2- ĐỪNG TU LẪN LỘN

Tu pháp nào thì đúng là tu pháp đó. Đừng tu lộn xộn, đừng tu lẫn lộn. Phải dùng tác ý để chỉ tu trong một pháp duy nhất. Và cũng dùng tác ý để chỉ tập trung tâm vào duy nhất thân hành đang tu, tập trung trong hành động của thân. Pháp tác ý là pháp dẫn tâm vào đạo, vào chỗ giải thoát, là pháp làm chủ thân tâm. Có sai lạc thì phải dẫn nó vào, “Có như lý tác ý thì lậu hoặc đã sanh sẽ bị diệt”.

3- TRƯỚC KHI NHẬP THẤT

Vô thất thì không còn quán gì khác, không còn quán tâm từ bi. Tâm từ bi là khi còn làm việc chung với mọi người, ai nói sao, dù thế nào cũng không khởi tâm tham,sân,si.
Trước khi tu ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ thì phải tu Tứ Bất Hoại Tịnh là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới. Khi còn sống chung với mọi người, còn làm việc chung với mọi người thì có thể quán tâm từ bi để xả tâm tham,sân,si thô. Cho nên,Tứ vô lượng tâm là pháp để tu trong cảnh động của giai đoạn đầu, lúc mới vào tu. Khi đã vô thất rồi thì không còn quán gì khác, không tu pháp nào khác. Chỉ tu pháp tác ý trong khi sống độc cư hoàn toàn để xả các niệm cho tâm thanh tịnh thật sự. Đây là giai đoạn tu tâm, tu nội tâm. Các pháp khác chỉ tu khi chưa nhập thất, còn tu với ngoại cảnh, nghĩa là các pháp như TứBất Hoại Tịnh là pháp tu trước khi tu Định Niệm Hơi Thở.
TứBất Hoại Tịnh là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới. Niệm Phật thì con phải biết Phật sống như thế nào, tu như thế nào, hạnh sống của Phật làm sao, để con thử xem con có làm như Phật được không? Như con có ăn ngày một bữa được không, con có cắt ái ly gia như Phật một mình vào rừng sống, có nhớ gia đình không. Rồi sống như Pháp, vậy thì Pháp dạy ra sao. Pháp dạy ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Rồi Niệm Tăng là sao, con phải chọn một vị tăng nào giới luật oai nghi nghiêm chỉnh, con xem vị đó có đầy đủ oai nghi tế hạnh thì con học theo vị đó gọi là niệm tăng. Đặc biệt trong lãnh vực giới là lãnh vực oai nghi tế hạnh của người tu theo chánh pháp Phật. Trong pháp của Phật có mười giới Sa di là những giới như thế nào. Sau đó con phải nghiên cứu đầy đủ giới của một vị Tăng. Giới bổn Patimokkha là bộ giới cấm chứ không phải là giới đức. Trong giới đức sẽ cho con thấy những giới nhỏ nhặt như giới nhỏ về tham lam mà chỉ khởi ý lấy của không cho là đã phạm giới rồi. Các giới nhỏ nhặt như vậy rất là nhiều. Như giới không sát sanh là thực hiện đức hiếu sinh thế mà trong khi con đi, con quên không tỉnh giác chú ý vào bước chân dẫm đạp lên các côn trùng như kiến... là con đã phạm giới. Con phải hiểu và sống cho đúng giới luật. Có nhiều bộ giới, trong đó con có thể tìm học giới 250 cho Tăng hay 349 cho Ni.
Vậy thì con phải nghiên cứu là con cần niệm TứBất Hoại Tịnh, tu TứChánh Cần, tu Tứ Vô Lượng Tâm, tu các loại Định Vô Lậu... cho giai đoạn đầu. Đó là những pháp tu ngoại cảnh. Đó là những pháp phải tu xong trước khi nhập thất tu xả tâm, tu Tứniệm xứ. Khi đã vào thất tu thì những cái đó phải tu trước cho thành thục. Khi đã vào thất tu thì chỉ còn ôm pháp Như lý tác ý mà thôi, là pháp để tu với nội tâm. 

4- ĐỀ MỤC THỨ TƯ ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Trong đề mục thứ tư “Cảm giác toàn thân....” của ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ thì con tu cảm nhận toàn thân bằng cách cảm nhận từ bàn chân trở lên cho tới đỉnh đầu và ngược xuống từ đỉnh đầu xuống bàn chân. Cách cảm nhận là NHÌN THẤY. Nhìn thấy là cảm nhận bằng mắt, sau đó cảm nhận bằng hình dung trong tưởng, trong ý. Nếu sự hình dung chưa được rõ ràng thì con cúi xuống nhìn lại cho thấy phần thân thể đó, rồi không còn nhìn nữa mà chỉ cảm nhận trong hình dung mà thôi. Phải tập chứ không phải tự nhiên mà cảm nhận dễ dàng.
Còn sự rung động là CẢM NHẬN SỰ RUNG ĐỘNG chứ không phải là sự rung động. Thí dụ khi hít thở con thật sự cảm nhận có sự rung động từ bụng lên trong khi con ngồi, nhưng con tập cảm nhận sự rung động này lan tràn khắp thân cùng lúc với nhịp thở vào ra khi thở. Đó là cảm nhận qua cái TƯỞNG để rồi con tập cảm nhận qua sự cảm nhận.
Phải tập từ từ và dùng tưởng của cái có thật, chứ không phải tưởng của cái không thật có, của tưởng. Như khi quán thực phẩm bất tịnh là có thật sự bất tịnh của thực phẩm nhưng trong lúc đó không có hiện tượng bất tịnh đó mà do ta tưởng tượng ra mà quả có thật. Chúng ta chỉ dùng tưởng để đối trị tâm tham dục của ta chứ không để tưởng đưa chúng ta đi vào thế giới siêu hình hư cấu, không thật có. Chúng ta biết dùng tưởng để đối trị tâm tham dục, chứ không để tưởng sử dụng lại mình. Tạo cho ý thức của mình nhàm chán. Như ngồi đây đâu có hôi thối nhưng con tưởng như có thây ma sình thối để con nhàm chán thân, ghê tởm thân con, để không quý trọng nó đến độ ai đụng chạm hay làm thương tổn thân con thì con có những hành động để bảo vệ nó. Con thấy trong kinh Phật có dạy “Tưởng thây ma” không? Đó là chúng ta dùng tưởng để tu. Cũng như làm gì có thực phẩm thiu thối nhưng con tưởng như có.

5- ĐỪNG TU LẪN LỘN

Trong khi con thư giãn mà cứ bị tâm tập trung, thì con phải dùng tác ý để thực hiện pháp nào ra pháp nấy, thư giãn thì ra thư giãn, hơi thở thì ra hơi thở, tâm bất động thì ra tâm bất động, không lộn xộn, không lầm lạc giữa các pháp. Đừng để nó lầm lạc, nói thư giãn mà nó cứ ở trong hơi thở không chịu thư giãn mà lại làm cho mình mệt, không tốt đâu. Con phải dùng pháp tác ý để thư giãn là thư giãn mà tu bất động là tu bất động. Đừng để nó làm lộn xộn, làm sai, bởi tu tập theo đạo Phật thì cái nào phải ra cái nấy, pháp nào ra pháp nấy, không được lẫn lộn. Con tác ý, nhờ pháp tác ý mà lôi nó trở ra, tu tập đúng pháp.
Con để ý cứ ngồi im thì nó tự động vô hơi thở nhưng khi tác ý, tâm chủ động thì nó không vô tự động đâu, nhưng ngồi im thì nó lại tự động vô, vậy thì tác ý nữa, nó không chịu thư giãn thì phải tác ý cho nó thư giãn: “Bây giờ là giờ thư giãn, không được tập trung vào hơi thở, bằng không thì đến giờ tu mày không thể tập trung vào hơi thở được”. Mỗi khi thấy tâm tự động không tu đúng pháp đang tu thì phải tác ý cho tâm trở lại pháp tu.

6- ĐI THÂN HÀNH NIỆM

Khi đi thân hành niệm, trước tiên con thấy chân, rồi trong khi đi, con cảm nhận bàn chân. Trong cảm nhận có hình dung hình dáng của bàn chân tức là có tưởng trong trí hình dáng và cảm nhận thật sự các chuyển động của chân từ lúc dở gót, dở chân, đưa tới, hạ xuống. Nghĩa là trong trí lúc nào cũng có hình ảnh của chân đang chuyển động và trong trí cũng có cảm nhận chân đang di chuyển. 
Nói chung, khi thân có hoạt động nào mà mắt thấy được thì dùng mắt để thấy, nếu mắt không thể thấy thì dùng cảm nhận và hình dung hoạt động có thật của thân. Tưởng nhưng có thật, nghĩa là hình dung cái đang thật sự có. Và cảm nhận cái có đó. Chỉ tập trung tâm vào duy nhất một hành động của thân thôi, không để cái biết phân ra biết tất cả mọi hoạt động của thân. Khi nó biết toàn thân hay biết cái không phải đối tượng chú tâm của con, thí dụ nó vừa biết bước chân mà cũng vừa biết tay con đang nhúc nhích trong khi đi, thì con tác yTâm chỉ biết bước chân thôi, không được biết cái gì khác. Trong khi đi im lặng thì nó lại biết toàn thân thì con tác ý: Biết bước chân đi”. Có tác ý thì tâm sẽ trở về biết bước chân, quên cảm nhận toàn thân, rồi khi con đi im lặng thì nó sẽ trở lại thói quen lâu cũ của con mà biết toàn thân. Nếu muốn cho nó không trở lại thói quen cũ của con thì con phải tập trung trong pháp đi kinh hành cho đúng cách đi pháp Chánh niệm tĩnh giác. Thân hành của con trong khi đi là bước đi thì nó phải chỉ biết bước đi mà không được biết cái khác, như vậy mới trọn vẹn chứ không khéo nó biết đủ các cái thì không được. Nó biết đủ thứ là nó bị phân tâm. Không tốt đâu. Đừng nghĩ tưởng trong khi đi tâm chỉ biết những hành động của thân mà không có vọng tưởng là đúng. Không phải như vậy! Như con thấy trong pháp Thân Hành Niệm, Thầy dạy: “Chân trái bước! Dở gót lên! Dở chân lên! Đưa chân tới!...” nhằm mục đích cho tâm chỉ chú ý vào hành động nào đó của thân chứ không phải biết hết mọi hành động của thân. Phải tập trung trong từng hành động của thân rõ ràng cụ thể. Truyền lệnh cho ý thức gom lại trên hành động đó chứ không được gom vào cái khác. Con thấy nếu nó không chịu nghe thì cứ tác ý. Tác ý riết thì nó phải nghe. Bền chí tác ý cho dù thời gian lâu đến cả tháng thì cuối cùng tâm cũng phải nghe theo tác ý, làm theo tác ý. Phải trị nó bằng pháp tác ý không cho tâm làm theo cái nó muốn. 

7- THẦY TRIỂN KHAI PHÁP TÁC Ý

Pháp tác ý là pháp rất tuyệt vời. Khi ta muốn cho thân tâm làm gì thì chỉ duy nhất tác ý điều đó. Chỉ có pháp tác ý mới làm được việc đó. Đó là pháp dẫn tâm vào đạo, dẫn cái biết của ta vào chỗ chúng ta muốn là chỗ giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không để nó tự động muốn làm theo nó. Đó là phương pháp dẫn tâm bằng ý thức làm chủ, không cho nó “đi lang thang. Làm chủ bệnh được thì làm chủ sống chết được. Phật cho chúng ta cái pháp, bây giờ Thầy triển khai dựng lại để cho các con có phương pháp làm chủ được thân tâm của các con tức là pháp dẫn thân tâm vào chỗ giải thoát với pháp tác ý. Các con phải tác ý để dẫn thân tâm vào chỗ giải thoát làm chủ sống chết.
Thầy thường nhắc trong kinh Tất cả lậu hoặc: Có như lý tác ý, lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh mà đã sanh thì sẽ bị diệt. Lậu hoặc là sự đau khổ của thân tâm mà chỉ có pháp tác ý thì nó sẽ không sanh hay đã sanh thì sẽ bị diệt. Thí dụ thân hiện giờ không có bệnh đau gì nhưng cũng tác ý “Thân không bệnh đau, phải khỏe mạnh bình thường” thì nó sẽ không bị bệnh đau, thân muốn đau cũng không bị đau được. Còn thân đang bị bệnh thì tác ý: Thân không được đau, phải khỏe mạnh” tác ý hoài thì bệnh đau phải hết.
Phật đã dạylậu hoăc đã sanh thì sẽ bị diệt”. Các con có biết nó - pháp tác ý - là vật vô giá, có quý nó thì nó mới có giá trị; chứ không biết giá trị của nó thì không ích lợi gì cho các con. Thầy chỉ tạo cho các con chỗ ở yên ổn để tu tập đúng với pháp của Phật dạy chứ Thầy không tu tập thay thế các con được. Các con phải tự thắp đuốc lên mà đi. Nhưng khi các con đủ điều kiện được ở gần Thầy thì từ trường thiện của Thầy giúp cho các con được yên ổn tu tập, không bị từ trường ác làm tâm các con động như khi ở xa Thầy. Các con không thấy được điều này nhưng tự nhiên có như vậy khi được gần vị có từ trường thiện, từ trường giải thoát. Trong không gian quanh chúng ta chứa đầy những từ trường thiện và ác. Từ trường thiện mạnh thì từ trường ác tự nhiên phải lui ra xa. Thầy chỉ có từ trường thiện nên khi các con ở gần thầy tự nhiên được hưởng sự yên lành đó giúp cho tâm các con.

8- CHUYÊN TU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

(Thầy trả lời câu hỏi của cô Liễu Thắm - Ninh Bình)
Tu Định niệm hơi thở thì cứ ở trên Định niệm hơi thở mà tác ý thì những chướng ngại trên thân tâm phải hết. Thí dụ con bị buồn ngủ thì trên định niệm hơi thở tác ý: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” thì nó phải hết buồn ngủ thôi.
Phật đã trang bị cho chúng ta đủ các pháp. Tâm các con còn lăng xăng này kia thì“Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra... “Quán ly sân...” “Quán ly si...”. Tất cả những cái đó đều ở trên các đề mục Định niệm hơi thở.
Khi tu Định niệm hơi thở ít nhất mỗi đề mục con phải tu trong một tuần lễ rồi mới chuyển qua đề mục kế. Sau khi tu từng đề mục một tuần cho đến khi hết cả 19 đề mục rồi ngồi lại xem cái tâm đã xả đến đâu, cái tâm bất động yên lặng đến mức độ nào. Nếu trong 30 phút tự nó yên lặng chứ không dùng phương pháp nào ức chế nó, vì con chuyên tu trên Định niệm hơi thở, thì tu định niệm hơi thở lần thứ ba, cho đến khi ngồi lại không còn niệm nữa thì đường tu Định niệm hơi thở của con đã tu xong. Nếu sau mỗi lần tu Định niệm hơi thở mà tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh, không niệm thì tu lại lần nữa. Cứ còn có niệm thì tu lại cũng chỉ trên Định niệm hơi thở thôi cho đến khi không khởi niệm mới thôi là vì tu đã xong, đã chứng đạo.
Con chỉ tu trên Định niệm hơi thở thôi vì trong pháp này có đầy đủ hết tất cả các pháp, chứ bây giờ con tu pháp này rồi qua pháp khác thì sẽ làm các pháp lộn xộn.
Con tu Định niệm hơi thở đợt thứ nhất xong cả 19 đề mục rồi qua lần thứ hai, thứ ba... cho đến lần thứ mười. Như vậy con giam mình ở tu viện trên ba năm ròng (ghi thêm: 3 năm 7 tháng 2 tuần) và chỉ chuyên tu pháp Định niệm hơi thở thì sẽ chứng đạo và như vậy đâu lâu. Tránh làm tâm phóng dật, tu Định niệm hơi thở đợt này xong tiếp tục tu đợt khác.
Trong khi tu mà có những chướng ngại gì là do con tu sai với pháp, như đã ức chế tâm, sai pháp, không đúng trên pháp Định niệm hơi thở chứ nếu không thì không bao giờ có những hiện tượng như nặng đầu, tức ngực, khó thở, ... 
Pháp Định niệm hơi thở dạy rất rõ: Hít vô tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra; hít; thở. Đó là nhiếp tâm lần thứ nhất. Còn an trú tâm trong năm hơi thở thì tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, rồi hít vô, thở ra. Cứ năm hơi thở tác ý lại.
Nghĩa là mình nhiếp tâm hay an tịnh tâm mình trong năm hơi thở. Đến khi con tác ý“Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra” thì để cho tâm tự nó ly tham, con không làm gì hết. Không còn lo gia đình hay nghĩ nhớ gì hết. Cũng đừng ghi chép  hết.
Khi đến giờ ăn mà không thấy muốn ăn. Sau khi quán ly tham xong thì “Quán từ bỏ tâm tham...” rồi “Quán đoạn diệt tâm tham.... Biết bao nhiêu đề mục của Định niệm hơi thở mà con tu. Định niệm hơi thở khởi đầu là tu hơi thở. Rồi cũng Định niệm hơi thở tu nhiếp tâm cho được trong năm hơi thở bằng câu tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi cũng Định niệm hơi thở tu an trú tâm trong năm hơi thở với câu tác ý“An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Khi đã an tịnh rồi cũng Định niệm hơi thở, nhưng không còn tác ý nữa mà chỉ lắng nghe sự an tịnh của tâm thôi. Rồi cũng Định niệm hơi thở mà tác ý“Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, rồi “Quán đoạn tâm tham tôi biết tôi hít vô. Quán đoạn tâm tham tôi biết tôi thở ra”, rồi “Quán diệt tâm tham tôi biết tôi hít vô. Quán diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra”. Rồi tâm sân cũng tu như tâm tham. Khi tu giải thoát các lậu hoặc này thì cũng chỉ tu khởi đầu bằng năm hơi thở và để cho tâm tự ly tham, ly sân, si... Khi đã giải thoát lậu loặc xong, không còn ái kiết sử, thì cũng định niệm hơi thở“Quán tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô. Quán tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra”.
Con thấy mình có duyên với Định niệm hơi thở thì ôm định niệm hơi thở tu. Sau mỗi lần thì tâm lậu hoặc của con giảm bớt. Con tu mỗi lần đủ cả cả 19 đề mục cho đến lần thứ mười thời gian tu nhanh cũng phải ba năm.
Mỗi khi buồn ngủ thì không cần đi kinh hành mà chỉ tác ý“Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” rồi dùng hơi thở thật chậm và thật dài mà phá cơn buồn ngủ. Phật đã dạy hơi thở dài hơi thở ngắn như thế thì làm gì còn buồn ngủ được. Tất cả những ác pháp khác cũng bị phá sạch. Phật trang bị cho chúng ta, đã dạy đủ hết, giờ chúng ta chỉ còn tu thôi.
Trong khi tu hơi thở, con chỉ biết hơi thở vô ra ở chỗ mũi chứ không tập trung tâm ở mũi, hay chót mũi, hay ở bất kỳ đâu. Con cứ tác ý cho đúng với câu tác ý trong Định niệm hơi thở hoài, đừng tác ý sai, đừng tự đặt ra câu tác ý khác, thì sự tác ý liên tục đó làm cho con có nội lực. Mỗi đề mục con tu một tuần lễ mà tu như vậy cả 19 đề mục, một lượt là 19 đề mục thì thời gian là 19 tuần lễ mới xong, mà con tu mười lần như vậy thì cái lực ý thức của con sẽ trở nên Tứ thần túc. Nhớ là chỉ hít thở sau khi tác ý câu tác ý xong. Và chỉ biết hơi thở vô ra ở cửa mũi, không tập trung tâm ở chỗ nào khác thì không sinh chướng ngại trên thân. Tác ý mỗi năm hơi thở, lúc nào cũng tác ý thì lực ý thức rất mạnh. Một tuần lễ tu chỉ một đề mục. Hơi thở dài một tuần lễ, hơi thở ngắn một tuần lễ. Tu ba mươi phút xả nghỉ ba mươi phút, vô tu ba mươi phút khác. Qua tuần lễ khác tu đề mục khác. Mỗi đề mục chỉ tu trong một tuần và chỉ tác ý câu trong đề mục thôi. Không tác ý tâm bất động vì con không tu tâm bất động. Chỉ ôm pháp Định niệm hơi thở tu, không tu pháp nào khác hết. Các tu sinh khác, như các Thầy, các Cô thì họ tu trực tiếp ngay với tâm bất động, người ta không dùng hơi thở như con, cho nên Thầy lo cho họ khi tâm nhiếp vào hơi thở thì họ đâu biết như thế nào đúng hay sai nên Thầy chỉ cho họ để cái tâm của họ ở chỗ đúng của pháp tu tâm bất động để họ không bị rơi vào sự ức chế tâm, không rơi vào chỗ sai rồi sinh ra những cảm thọ như nặng đầu, nhức đầu, hay cơ thể bị bất an... Còn con chỉ có duy nhất pháp Định niệm hơi thở với câu tác ý thay đổi theo từng đề mục thì không có gì làm con bất an. Nếu có là do tập trung sai. Chỉ đặt tâm ở mũi để biết hơi thở vô ra tại đó và chỉ chú tâm vào hơi thở thì không sai, đừng tập trung tâm nơi nào khác thì không làm sao có sự gây cảm giác bất an thân.
Khi đặt tâm ở hơi thở ở mũi rồi hít vô chậm chậm, thở ra cũng chậm chậm, đó là hơi thở dài. Ở đây không tập trung tâm chỗ nào mà chỉ tập trung trong hơi thở vô ra, điểm ở mũi chỉ là nơi để cảm nhận hơi thở đi qua, đi ngang không phải là tập trung tâm tại đó. Không tập trung tâm ở chóp mũi, hay điểm chóp mũi, cũng không ở giữa trán hay đỉnh đầu, không tập trung tâm ở bụng để thấy hơi thở vô ra thì cơ bụng phình xọp theo pháp tu của Miến Điện. Không tập trung tâm ở bất cứ chỗ nào mà chỉ tập trung tâm vào hơi thở. Ở đây chỉ thấy hơi thở vô ra, không thấy gì khác hết.
Tối ngày chỉ tu tập theo 19 đề mục Định niệm hơi thở thôi, không tu tập gì khác hết. Tu hết cả 19 đề mục Định niệm hơi thở lượt này xong thì tu lượt khác, mỗi đề mục một tuần, lúc nào cũng tác ý đúng với câu tác ý của đề mục mà tu cho đủ số 10 lượt như vậy thì có kết quả to lớn lắm, lực ý thức cũng mạnh không đo lường được.
Người không tu theo Định niệm hơi thở mà chỉ tu tâm bất động thì họ ngồi yên lặng chờ niệm, có khi cả nửa giờ hay lâu hơn, họ không có cơ hội để tác ý nhiều. Còn con tu định niệm hơi thở phải tác ý hoài vì đó là pháp của định niệm hơi thở, tu cứ 5 hơi thở tác ý một lần và tu trong 30 phút, xả nghỉ 30 phút tu lại; tu đúng một tuần lễ thì thay qua đề mục khác cũng tu như vậy trong một tuần. Đi cho hết cả 19 đề mục Định niệm hơi thở rồi trở lại tu lượt khác. Nội tâm tham con phải tu “Quán ly” rồi Quán từ bỏ” rồi “Quán đoạn diệt là như vậy con phải tu trong 3 tuần với tâm tham. Rồi tâm sân, rồi tâm si, mỗi loại tâm ác pháp đó con cũng phải tu tâm trong ba tuần. Tu xong cả ba tâm này mới chuyển qua đề mục khác. Mỗi đề mục con tu 30 phút, xả nghỉ 30 phút và tu đủ mỗi thời khoá ba giờ trong cả bốn thời khoá.
Nhưng vì tập trung hơi thở trở thành thói quen nên khi xả nghỉ nó cũng cứ tập trung trong hơi thở cho nên con cần tác ý cho nó buông hơi thở ra. Nhưng chỉ được một lát, nó lại quay về biết hơi thở, khi đó con cần tác ý lại. Cứ mỗi khi nó quay về biết hơi thở thì con phải tác ý để thư giãn, trong xả nghỉ thì phải xả nghỉ, cho đến khi tâm không còn bám trong hơi thở, không để cho tâm lúc nào cũng tập trung trong hơi thở. Pháp thư giãn rất quan trọng cho nên phải tu cho đúng pháp thư giãn. Phải tập thư giãn. Giờ tu không chịu tu mà giờ thư giãn lại ôm pháp tu. Cái tâm làm việc trái ngược như thế. Trong khi nghỉ mà tâm vẫn bám vào hơi thở thì cũng phải tác ý cho tâm rời hơi thở trở lại trạng thái bình thường.
Pháp của Phật là pháp dẫn tâm vào đạo. Phải dẫn tâm vào chỗ thư giãn. Nghỉ là nghỉ, không tu pháp nào cả. Giờ mình tu pháp thư giãn mà không tu được thì sẽ làm cho mình mệt, sẽ làm chướng ngại thân tâm. Khi tu thì phải tu cho nhiệt tâm, cho có chất lượng trong từng giây, từng phút, từng giờ.
Định niệm hơi thở không tu kèm với bất kỳ pháp tu nào khác. Chỉ tu định niệm hơi thở thôi. Khi buồn ngủ thì tác ý“Với tâm định tỉnh, tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tỉnh, tôi biết tôi thở ra”, rồi hít vô chậm chậm, thở ra cũng chậm chậm theo hơi thở chậm và dài thì cơn buồn ngủ phải lui, con được tỉnh táo trở lại, không đi kinh hành, chỉ tu Định niệm hơi thở thôi, chỉ dùng hơi thở của Định niệm hơi thở để phá hôn trầm chứ không phải con tu định niệm hơi thở. Tại cái pháp Định niệm hơi thở đã sẵn sàng đủ hết các đề mục để giúp con diệt trừ tất cả các lậu hoặc, các tham ưu trên thân tâm đúng theo Phật pháp.

9- TÁC Ý CHO THÂN TÂM LÀM THEO Ý THỨC

Vào giờ tu thì phải pháp nào ra pháp ấy. Tu pháp tâm bất động thì phải là pháp tâm bất động. Bây giờ chỉ mới nhận ra tâm bất động chứ chưa sống được với tâm bất động. Pháp tác ý là pháp sẽ dẫn tâm các con vào chỗ bất động, chứ bây giờ các con ngồi bất động thì không được cho nên phải tác ý để thân tâm bất động hoàn toàn. Các con tác ý không chỉ để thân tâm các con bất động, mà còn cho thân tâm làm theo ý thức để tạo thành lực ý thức, để sự tác ý trở thành bốn thần lực để rồi các con sử dụng nó mà nhập các định.
Lúc này là lúc luyện ý thức chứ không phải luyện sự bất động, chỉ là tu cái lực ý thức chứ chưa phải tu tâm bất động. Dùng sự bất động để nhắc tâm chúng ta rèn luyện lực ý thức, tác ý càng nhiều thì lực ý thức càng mạnh. Sự tác ý có giá trị rất cao. Nếu không tác ý, hoặc tác ý ít quá thì nó không tạo thành cái lực. Cho nên, pháp tác ý rất cần cho các con trong giai đoạn tu tập này. Do vậy, đừng hiểu sai mục đích pháp tu trong giai đoạn này để không bị rơi vào trạng thái ức chế ý thức, ức chế tâm. Hiện giờ các con chưa đủ lực của ý thức chứ nếu lực ý thức có đủ thì khi các con muốn cái gì, ra lệnh thì lệnh đó có cái lực, có sức mạnh, nó khiến, nó bảo, nó bắt buộc thân tâm phải làm theo y như vậy. Đó là cái lực ý thức. 
Hôm nay tu tập là tu lực ý thức chứ không phải là tu tâm bất động. Cho nên, người nào tu tâm bất động thì sẽ bị rơi trong sự ức chế tâm của mình. Lực ý thức mạnh đến độ vượt qua những quy luật vật lý chúng ta đang biết. Thí dụ con ra lệnh bảo cái thân này phải bay lên bao nhiêu thì thân sẽ bay lên cao như ý con muốn, chỉ bằng cái lực ý thức của con. Vậy giai đoạn này là giai đoạn rèn luyện lực ý thức chứ không phải rèn luyện cái tâm bất động, các con cần phải tác ý mỗi khi có niệm. Niệm nhiều, tác ý nhiều. Tác ý càng nhiều thì lực ý thức càng mạnh mà niệm lạí giảm bớt. Khi không có niệm thì ngồi im lặng hoàn toàn thư giãn, tâm không được ôm một pháp nào, tâm không chú ý vào một đối tượng nào. Con nhìn xem tâm con bám vào cái gì, nó bám vào cùng lúc toàn thân và hơi thở thì được, còn nó chỉ bám vào một chỗ nào của thân là sai. Đầu tiên chúng ta quán xét để biết cái tâm bất động thôi chứ không phải chúng ta dùng nó để tu tâm bất động. Chúng ta nhắc tác ý“Tâm phải bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”, rồi ngồi nhìn trong đầu thấy nó không có niệm gì thì chúng ta biết rằng nó đang bất động. Biết như vậy nhưng lại không được nhìn mãi trong đầu bằng không thì bị ức chế. Chỉ nhìn trong đầu để biết nó đang có bất động thôi, không được tu nhiều, nghĩa là không chú tâm lâu vào trong đầu, chỉ đủ thời gian để biết có sự bất động. Như vậy mới đúng cách. Nhờ cái bất động này để rèn lực ý thức, không phải tu tâm bất động. Phải hiểu như vậy chứ không thì khi thấy nó bất động và tác ý cho nó bất động là không phải. Tác ý không phải để cho tâm bất động mà chỉ để có lực ý thức. Nhưng khi lực ý thức có rồi, con bảo tâm bất động thì tâm sẽ bất động không niệm.
Các con thấy ta tu cái ý thức này được kết quả có lực rồi thì ta lại làm chủ được cái tâm không niệm kia. Chẳng những vậy mà khi thân bị bệnh gì thì dùng ngay lực ý thức đó bảo thân không được có bệnh như vầy như vầy thì đuổi được bệnh đó. Cho nên, chúng ta tu tập cái lực ý thức, chứ không phải tu tập pháp tâm bất động, nhưng chúng ta dùng câu tác ý tâm bất động để rèn luyện pháp tác ý tạo lực ý thức. Khi nó đang yên lặng thì đừng tác ý. Nó thoái mái, thư giãn, nhìn trời mây trăng gió gì thì cứ để cho nó tự nhiên tự do như vậy. Nhưng khi nó bám dính vào một cái gì thì lôi nó ra. Nghĩa là khi nó có ý nghĩ, có tư tưởng về một cái gì, về một chuyện gì thì đó là nó đang phóng dật, phải tác ý chấm dứt sự phóng dật đó ngay. Nó chỉ biết trong thân mới đúng. Nó phải thản nhiên, phải vô sự thật sự, không dính với ngoại cảnh, mặc dù nó đang nhìn ra ngoài thân. Nếu nó có ý nghĩ, có tư tưởng nào thì tác ý bảo nó quay vô trong thân, không được phóng dật.
Việc nào không phải là trách nhiệm của mình thì đừng làm. Việc chính của mình là tu, là huấn luyện tâm, tu tập tâm, không làm gì cả. Không có tư tưởng ý nghĩ về sự chướng mắt.
Nếu trong thời gian tu tác ý tâm bất động mà các hồi tưởng về quá khứ cứ hiện về liên tục thì cũng tác ý liên tục. Các hồi tưởng này bao lâu còn thì bấy giờ vẫn còn tác ý cho đến chừng nào các hồi tưởng chấm dứt. Các hồi tưởng có kéo dài một hai tuần thì cũng cứ tác ý trong suốt thời gian đó. Khi không có hồi tưởng, không có niệm nào thì ngồi yên lặng trong trạng thái tâm bất động. Còn niệm thì còn tu, nỗ lực tu cho đến khi không còn niệm, trong bao lâu cũng không có niệm. Cho đến khi suốt bảy ngày đêm không có niệm là thành công. Hết tu. Còn khi có niệm, khi không có là do tâm ta chưa xả ly hết dục, chưa xả ly hết ác pháp. Khi ác pháp hết, dục hết thì tâm không có niệm. Tâm không còn niệm thì không còn đối tượng tu.

10- TRI KIẾN MINH VỀ NHÂN QUẢ

Tất cả mọi chuyện trong đời đều có nhân quả, nhưng vì ta chưa có minh nên không biết nó do từ nhân quả nào cụ thể mà vì vậy có niệm này kia lại tạo nên nhân quả mới. Cứ nhân quả mới trùm lên nhân quả , cho nên nhân quả cứ tiếp nối nhân quả, không dứt, hậu quả là tái sanh vô tận vô cùng. Khi có tri kiến minh về nhân quả thì tâm tham, sân, si bị hoá giải không còn, cho nên dù ai nói gì, làm gì cũng không buồn, không giận, không vui vì biết đó là nhân quả giữa mình với người. Biết đó là nhân quả thì sao phải có thái độ buồn vui? Có tri kiến và nhân quả thì không còn tham, sân, si. Khi chưa hết tham, sân thì dùng pháp Như lý tác ý đuổi tham, sân ra. Chỉ có minh khi tâm bất động đủ thời gian cần thiết. Và sẽ hết tham muốn khi có tâm bất động. Khi còn tham, sân, si thì còn tương ưng mới có bào thai. Khi hết tham, sân, si thì không có bào thai, không còn tương ưng với ai hết.
Tu đơn giản như vậy đó. Nghiệp cản đường tu của ta. Trong góc độ nhân quả, nghiệp rất khó vượt qua. Khi chúng ta chiến đấu với nhân quả mới thấy sức mạnh của nghiệp.

11- ÔM PHÁP TÁC Ý

Khi thân không đau, còn khỏe thì thấy pháp Như lý tác ý rất thường, nhưng khi đau mới thấy phải ôm pháp Như lý tác ý cho chặt chứ không thì đau không chịu đựng nổi. Cho nên, Thầy nói ôm pháp Như lý tác ý như ôm phao vượt biển. Khi thân đau thì pháp Như lý tác ý là cái phao, phải ôm cho thật chặt mới vượt qua cái đau, ôm lỏng lẻo thì sẽ bị cảm thọ đau. Cho nên, phải ôm cho chặt pháp Như lý tác ý mới vượt qua cảm thọ thống khổ khốc liệt, chứ không thì bị cảm thọ đánh chịu đựng không nổi, cũng như khi ôm phao không kỹ bị sặc nước. Phải luyện tập pháp Như lý tác ý trong khi thân chưa bị đau để đến khi đau thì pháp đã được ôm chặt rồi. Nhờ đã ôm chặt nên mới vượt qua biển khổ đến được bờ an toàn. Cho nên, phải làm sao ôm cho chặt tâm bất động để vượt sóng cảm thọ. Đừng ôm lỏng để không bị cảm thọ đánh. Ôm chặt thì không cảm giác đau mà ôm lỏng thì bị cảm thọ đau mà lâu hết. Ôm lỏng thì khi không cảm thấy đau, khi bị đau. Khi bị đau thì không chịu đựng nổi.
Vọng tưởng nhiều thì tác ý nhiều, vọng tưởng ít thì tác ý ít, không có vọng tưởng thì ngồi chơi. Giữ hạnh độc cư cho nghiêm, sống một mình đừng đi lui tới với ai hết thì không lâu sẽ đạt được tâm bất động, rồi sống với tâm bất động cho thật kiên cố bền chặt. Trong trạng thái tâm bất động là trong trạng thái tứ niệm xứ nên không cảm thấy mệt mỏi gì cả, lúc nào cũng khỏe khoắn an lạc, không đói khát gì cả. Khi tâm bất động thì không quan tâm đến bất kỳ cái gì của bất kỳ ai nhưng tâm biết rõ những cái đó mà không hề quan tâm đúng sai gì cả.
Trạng thái tứ niệm xứ là trạng thái của Chánh Niệm trong đạo Phật. Khi tâm các con vừa biết hơi thở mà cảm nhận toàn thân thì đó là tâm tứ niệm xứ.

12- TRẠNG THÁI ĐỊNH

Khi nhập vào định tâm bất động thì cũng không ăn uống, không ngủ. Họ như người bình thường nên người khác có thể tiếp cận người đang ở trong trạng thái tâm bất động. Trong định tâm bất động thì không như trong định Tứ Thiền vì trong định Tứ Thiền có từ trường như một lồng kiếng, không ai xâm nhập vào lồng kiếng của người đang trong định Tứ Thiền này được. Người nhập Chánh Định (Tứ Thiền) không ăn, không uống nhưng không chết, cơ thể không khác biệt với người sống. Định tâm bất động là định của tứ niệm xứ, chưa phải là định của Chánh Định (Tứ Thiền). Khi Thầy nhập Chánh Định Phật giáo (Tứ Thiền) thì Thầy ở trong trạng thái định (Tứ Thiền), không biết gì hết (mọi cái chung quanh), còn khi trong định tâm bất động thì thầy còn biết hết mọi cái chung quanh nhưng không bị duyên vào trong cái nào cả, sai đúng không ảnh hưởng gì Thầy, Thầy không quan tâm cái gì hết. Trong tâm bất động suốt bảy ngày đêm ở trên tứ niệm xứ, không ăn uống gì mà không sao, chứ nếu còn động thì không chịu nổi, còn cần ăn uống tiêu tiểu.

13- TÂM TỨ NIỆM XỨ

Thầy dẫn dắt các con đi vào tứ niệm xứ: Giờ các con còn bám vào hơi thở cho đến khi các con vừa biết toàn thân mà cũng biết được hơi thở thì đó là tâm tứ niệm xứ. Các con lần lượt sẽ vào tâm tứ niệm xứ này từ tâm bất động. Nếu các con vào bằng đường nào khác là trật. Cho nên, các con tu tâm bất động thì sẽ vào đúng tứ niệm xứ, không thể trật được. Trong tâm bất động thì tâm không phiền não giận hờn mà như vậy không bị bệnh đau chứ còn phiền não giận hờn thì sẽ hay bị bệnh đau. Mà khi tâm bất động thì đã có lực ý thức nên thân có bệnh đau gì thì chỉ cần tác ý là hết bệnh. Chỉ cần tác ý đuổi cảm thọ một cách nhẹ nhàng thì không bị cảm thọ gì cả“Thọ là vô thường, chỗ đau này hãy đi đi”. Chỉ nói nhẹ như vậy thôi là hết cảm thọ, hết bệnh.

14- CÁI NGUY HIỂM TRONG KHÔNG TƯỞNG ĐỊNH

Trong không tưởng có những cái nguy hiểm, có thể bị chết trong không tưởng. Trong không tưởng lúc nào cũng có thời gian hạn định, nếu không chịu xuất khi tới hết thời gian này thì “cửa thời gian bị đóng lại không còn biết đường xuất ra được, vì vậy sẽ chết trong trạng thái không tưởng. Trong Chánh Định thì có xuất có nhập do ý làm chủ, do ý tạo tác; còn trong thiền không tưởng định thì chỉ nhập định khi không còn ý thức cho nên không chủ định được, không điều khiền bằng ý thức được, mà lại có thời gian hạn định, như trong mấy ngày: một tuần hay một tháng, hay một số ngày nhất định phải định trước. Nếu tới hạn mà không chịu xuất ra thì Cửa thời gian bị khoá” không còn biết đường xuất ra. Không xuất ra được vì không có lực ý thức thì cái thân sẽ bị chết. Thân xác ở trong không định nên không hư thối nhưng bị khô vì thân đã chết, thân thành bộ xương khô. Còn người nhập Chánh Định Phật giáo thân không khô vì Thiền duyệt thực, thân tự hấp thu trong không khí những yếu tố cần thiết để nuôi thân.
Ở Việt Nam có các ngài Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Tường tu theo Thiền Đông Độ, nhập vào không định, muốn đi tới nữa mà không tới được, cho nên lâu quá, không biết đường ra, mà bỏ thân lại sau khi bị chết. Bên Trung quốc có nhiều vị sư tu Thiền tông đã để lại nhục thân như ngài Từ Hàng, ... Lục tổ Huệ Năng cũng lọt vào trong không định mà chết, để lại nhục thân.

15- XUẤT, NHẬP THIỀN ĐỊNH

Thiền của Phật có xuất có nhập nhờ vào ý thức làm chủ, mà các tổ không hiểu, không biết nên chê“Thiền có xuất có nhập là còn thấp, thiền các tổ không như vậy mà đi tới luôn”. Các tổ đâu tu với ý thức làm chủ để muốn vô thiền nào thì vô ngay thiền đó. Sơ thiền thì vô ngay Sơ thiền, Nhị thiền thì vô ngay Nhị thiền.... Khi đang ở trong mức thiền nào mà muốn nhập mức thiền khác thì phải xuất mức thiền đang trú mới nhập vào mức thiền khác. Các con thấy trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật nhập Sơ thiền, ra Sơ thiền; nhập Nhị thiền, ra Nhị thiền; nhập Tam thiền, ra Tam thiền; nhập Tứ thiền. Rồi ngược lui, ra Tứ thiền nhập Tam thiền; ra Tam thiền nhập Nhị Thiền; ra Nhị thiền nhập Sơ thiền. Rồi đi xuôi lên từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Ba lần xuôi ngược như vậy rồi Phật mới nhập Niết Bàn. Các con đọc trong kinh nói“Ra Sơ thiền nhập Nhị thiền. Vậy khi ra Sơ thiền thì tâm ở chỗ nào rồi từ chỗ đó mới nhập vào tầng thiền định muốn nhập. Các con đang còn tâm tham, sân, si mà các con muốn nhập định thì làm sao nhập được. Cho nên, Tứ Niệm Xứ được xác định rất rõ là Chánh Niệm sau Chánh Định trong Bát Chánh Đạo của đạo Phật, mà trạng thái tứ niệm xứ là trạng thái tâm bất động. Khi con muốn nhập Sơ thiền thì con phải ở trạng thái tứ niệm xứ là trạng thái tâm bất động. Khi con xuất Sơ thiền thì con phải trở ra trạng thái tâm bất động đó, chứ các con ra xong tầng thiền nào thì tâm con ở trạng thái nào, không lẻ có trạng thái lừng chừng nào để tâm con từ đó vào Nhị thiền sao? Còn nếu trong khi con đang ở trong Sơ thiền rồi từ đó con vào ngay Nhị thiền thì sao có thể nói “xuất ra kh̉ỏi Sơ thiền”. Trong kinh nói rất rõĐức Phật nhập Sơ thiền, xuất ra khỏi Sơ thiền (mới) nhập Nhị thiền, ra khỏi Nhị thiền (mới) nhập Tam thiền, ra khỏi Tam thiền (mới) nhập Tứ thiền.... Vậy khi Phật ra khỏi Sơ thiền thì tâm Phật ở chỗ nào để vô Nhị thiền? Đọc kinh thì phải hiểu chứ không phải chỉ đọc suông.
Phật xuất ra các thiền chứng thì tâm Phật phải ở chỗ nào, ở trên mảnh đất nào, rồi từ đó Phật mới nhập vào thiền khác. Còn nếu Phật không xuất mà đi một lèo từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền vậy thì kinh nói Phật xuất ra khỏi có ý nghĩa thế nào? Cho nên, trước khi Phật nhập Sơ thiền thì Phật đã đạt tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự trên tứ niệm xứ rồi, tức Phật đã ở trên Chánh Niệm rồi. Từ trong Chánh Niệm đó sau bảy ngày đêm thì ta có được định như ý. Định như ý túc, là chứng đạt định như ý mình muốn, cho nên từ mảnh đất tâm bất động đó mới tác ý vào Sơ thiền thì tâm ta vào Sơ thiền. Khi đang ở trong Sơ thiền, muốn xuất ra khỏi Sơ thiền thì cũng dùng định như ý để ra khỏi Sơ thiền. Khi đã vào Nhị thiền thì ý thức mình đâu còn làm việc gì được nữa vì lúc đó tầm tứ đã bị diệt. Mà ý thức là một trong sáu sắc thức hoàn toàn bị tê liệt, ngưng hoạt động vậy mà con xuất ra nhập vào các thiền được là xuất nhập ra vô bằng Định như ý, Định như ý túc bằng ý thức lực của Tứ thần túc để xuất nhập vô ra các thiền chứng.
Diệt tầm tứ là diệt ý thức, sáu thức hoàn toàn tê liệt ngưng hoạt động vậy mà vẫn ra vô được là bằng Định như ý túc, định như ý muốn. Chỉ có lực định như ý mới làm được việc này. Cho nên ý bảo xuất ra khỏi Sơ thiền thì tâm phải ở trên tâm bất động của tứ niệm xứ. Từ tâm bất động đó Định như ý bảo vô Nhị thiền thì thân tâm sẽ vô Nhị thiền. Trước khi vô Nhị thiền không phải bằng ý thức ra lệnh mà Định như ý ra lệnh nhập Nhị thiền bằng lệnhDiệt tầm tứ nhập Nhị thiền”. Rồi khi ra khỏi Nhị thiền, tâm ở trên mảnh đất tâm bất động của tứ niệm xứ, Định như ý mới ra lệnh“Diệt tất cả các loại tưởng nhập Tam thiền. Khi ra khỏi Tam thiền thì tâm lại ở trên mảnh đất tâm bất động của Tứ niệm xứ, Định như ý ra lệnhTịnh chỉ hơi thở nhập Tứ thiền”. Mỗi mức thiền đều có hỉ lạc khinh an của thiền. Mức khinh an hỉ lạc này thay đổi tuỳ theo loại thiền. Thiền càng cao thì mức khinh an này càng lớn. Nhị thiền không bằng Tam thiền; Tam thiền an ổn ít hơn Tứ thiền.
Còn các định tưởng từ Không vô biên xứ tưởng đến Phi phi tưởng xứ đều là thiền của ngoại đạo, do ức chế ý thức ngưng hoạt động mà vào. Không phải đạo Phật không nhập được các loại định tưởng này. Đạo Phật nhập được các loại định tưởng này rất dễ dàng bằng Định như ý túc, khi chúng ta có được Định như ý túc thì nếu muốn nhập bất kỳ định tưởng nào cũng đều nhập được cả, không gì chướng ngại vì ý thức của ta thiết lập đầy đủ các điều kiện nhập định và diệt tất cả các điều kiện làm cản trở trên đường nhập các loại định tưởng đó. Cho nên, từ Không vô biên xứ cho đến Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ hay Phi tưởng phi phi tưởng xứ và Diệt thọ tưởng định đều nhập được hết.
Khi ta đã nhập vào tứ Chánh Định của Phật giáo rồi thì mọi định tưởng của ngoại đạo không có gì khó khăn, không gì chướng ngại. Khi Phật tu theo ngoại đạo, các vị thầy ngoại đạo dạy cho Phật nhập các loại định của họ thì Phật nhập rất dễ dàng như Không vô biên xứ tưởng hay vị khác dạy nhập Phi phi tưởng xứ, nhưng xét lại Phật thấy tâm tham, sân, si vẫn còn. Phật thấy nhập các định này không diệt hết tham, sân, si nên từ đó Phật mới tìm ra phương pháp ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp diệt hết tham, sân, si thành tựu được Sơ thiền từ nền tảng tứ niệm xứ.
Nhờ vậy hôm nay chúng ta có pháp Tứ Niệm Xứ. Pháp ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp là Tứ chánh cần. Khi ngăn ác diệt ác hết rồi thì tâm tự nó bất động. Như bây giờ Thầy dạy các con pháp tác ý là ngăn ác diệt ác. Khi tâm các con diệt hết ác pháp thì tự nó không niệm là lúc các con ở trên tứ niệm xứ, tâm các con tự bất động vì nó đang ở trên Chánh Niệm là tứ niệm xứ. Mà khi ở trên tứ niệm xứ không niệm trong thời gian đòi hỏi thì các con có đủ Tứ như ý túc, rồi các con mới nhập được Tứ Thánh định của Phật giáo, là các con qua lớp thứ tám của Phật giáo là Chánh Định.
Chỉ có Chánh Định mới có Thiền thứ Tư chứ thiền của ngoại đạo chỉ có Tà Định, không thể có Chánh Định thiền thứ Tư làm chủ sống chết. Phật giáo có bốn thiền từ Sơ thiền đến thiền thứ Tư mà muốn nhập từ thiền này vào thiền khác thì phải xuất ra khỏi thiền đang chứng mới nhập vào tầng thiền khác cao hay thấp hơn. Cho nên, các Tổ bảo thiền có xuất có nhập hãy còn thấp, còn dở, không như thiền của các Tổ đi một lèo lên các tầng thiền cao hay xuống theo thứ tự từ cao xuống thấp. Không cần phải xuất ra khỏi rồi mới nhập như thiền của Phật giáo, của Phật. Thầy chỉ là người đi trước, là người dẫn đường, là vị Thầy của các con thôi. Không phải Tổ của pháp thiền nào.
Tất cả các sách chỉ là để hiểu biết thôi, không phải là sách cho chúng ta tu. Chỉ khi các con đã tu chứng xong, viết lại những gì do từ kinh nghiệm bản thân của các con thì đó mới là sách dạy tu vì có đầy đủ thực tế do kinh nghiệm từ bản thân của các con, không bị sai chỗ nào. Khi các con tu chưa xong thì chỉ hiểu các pháp tu tập qua kiến giải nên sai trật rất nhiều mà các con không nhận thấy, người tìm học cũng không nhận thấy. Cả hai, người viết và người đọc, thấy hợp với sự suy luận của họ nên họ chấp nhận và chấp chặt. Càng đọc nhiều sách thì càng rối thêm.

16- CÓ NIỆM THÌ MỚI TÁC Ý

Bây giờ các con chỉ ôm pháp Như lý tác ý để ngăn và diệt cho hết các ác pháp trong tâm. Tâm còn niệm nào thì tác ý để cho nó tạo thành lực ý thức. Đó là pháp tu Thầy dạy cho các con để các con tu làm sao cho tâm các con trở nên bất động, không có vọng tưởng. Không vọng tưởng mà đúng pháp chứ nếu các con tu tập bất cứ pháp nào dù được không vọng tưởng nhưng lại sai pháp, thì sẽ không nhập Chánh Định của Phật giáo được bởi lực ý thức của các con chưa đủ. Vậy nên các con cần tập luyện cho lực ý thức có đủ. Bởi vậy, các con cần tác ý nhiều cho nó tạo lực ý thức, nhưng không phải ngồi mà tác ý hoài dù không có niệm nào, làm như người điên ngồi nói lảm nhảm hoài. Có niệm thì mới tác ý còn khi đang không niệm thì cứ để cho nó tự nhiên, không được tác ý vì tác ý là làm cho tâm bị động bởi câu tác ý. Tác ý là chỉ khi nào có đối tượng. Có đối tượng mới tác ý để làm cho lực ý thức sinh khởi. Hơn nữa tác ý mà không có đối tượng là bị tưởng, là bị bệnh tưởng.
Trong pháp môn Niệm Phật, người mới tu mà niệm Phật được nhất tâm là bị ý thức ngưng hoạt động; ý thức bị ngưng thì tưởng thức sẽ hoạt động, nhìn đâu cũng thấy cõi Cực Lạc, nhìn đâu cũng thấy có Phật Di Đà, có chư vị Bồ Tát là bị điên khi không còn ý thức mình đang trong thực tế cuộc sống trong đời. Cho nên, tu phải biết cách tu. Không biết cách tu, lại dạy cho người tu trong sự tối tăm đó thì sao tránh được sanh bệnh tưởng? Họ chỉ căn cứ vào kinh cho là Phật dạy tu như vậy, như kinh Di Đà chẳng hạn. Nếu không có người tu chứng thì ai làm sao vạch cho thấy cái sai của kinh sách như vậy, vì ai cũng tin là pháp này do Phật tu và thuyết lại cho người sau. Trong kinh còn ca tụng pháp tu Niệm Phật này phù hợp với thời đại, dễ tu dễ chứng, ai tu cũng được, ai tu cũng có thể chứng được. Những ca tụng đó làm cho ai nghe cũng ham thích pháp, cũng thực hành vì quá dễ thực hành trong mọi hoàn cảnh. Cõi Cực Lạc lại có vô số điều vui sướng mà cõi này không thể có. Bây giờ, trong số các con đã có người, thay vì niệm danh Phật, họ lại niệm câu tác ý. Thật không thể tưởng có những người tin pháp tác ý của Phật một cách sai lạc như vậy.
Bây giờ các con chỉ còn tu pháp tác ý: Vọng tưởng nhiều tác ý nhiều, vọng tưởng ít tác ý ít, không vọng tưởng không tác ý chỉ ngồi tác ý yên lặng theo dõi cái yên lặng đó.
Nhớ như vậy mà tu!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét