PHÁP MÔN TỨ NIỆM XỨ
(Định Vô Lậu câu hữu Tứ Niệm Xứ)
Như thế nào là Định Vô Lậu câu
hữu Tứ Niệm Xứ? Như trong kinh đức Phật đã dạy Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ có bốn
chỗ: 1. Thân; 2. Thọ; 3. Tâm; 4. Pháp. Vậy chúng ta tu tập Định Vô Lậu trên bốn
chỗ này nên gọi là câu hữu Tứ Niệm Xứ.
1- Thân Niệm Xứ
Trong Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy:
“Này các thầy tỳ-kheo, ở đây tỳ-kheo quán thân trên thân nhiệt tâm, tỉnh giác
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.”
Chúng ta nên lưu ý lời dạy này:
“Quán thân trên thân,” quán thân trên thân tức là xem xét thân của mình coi có
lậu hoặc hay không? Nếu có thì phải khắc phục hay chế ngự không cho lậu hoặc
tác động vào thân, vì vậy mà Đức Phật dạy: “Chế ngự tham ưu,” tham ưu tức là
lậu hoặc.
Như vậy trên thân quan sát thân
có nghĩa là xem thân coi có chướng ngại pháp hay không để đẩy lui các chướng
ngại pháp ra khỏi thân không cho các chướng ngại pháp tác động làm khổ cho
thân, như vậy tức là tu Định Vô Lậu câu hữu với Thân Niệm Xứ.
Hằng ngày chúng ta ngồi hoặc đi,
hoặc nằm, hoặc đứng đều xem xét thân của mình coi có chướng ngại pháp thì đẩy
lui cho khỏi, đừng để chướng ngại pháp trong thân dù một phút giây nào cả thì
đó là thân vô lậu, mà thân đã vô lậu là giải thoát. Cho nên Đức Phật thường ca
ngợi pháp môn Tứ Niệm Xứ là đạo lộ đệ nhất pháp vô lậu.
“Này các thầy tỳ-kheo, đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh vượt khỏi sầu não, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.”
2- Thọ Niệm Xứ
Đức Phật dạy: “Này các thầy
tỳ-kheo, ở đây tỳ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời.”
Lời dạy này quý vị nên lưu ý là
phải luôn luôn xem xét từng phút, từng giây trên các cảm thọ của thân và của
tâm, nếu các cảm thọ này làm chướng ngại cho thân và tâm thì chúng ta tìm mọi
cách đẩy lui không để chướng ngại pháp này trong thân tâm của chúng ta nữa thì
đó là khắc phục sự đau khổ giúp cho thân tâm giải thoát, khi thân tâm không còn
chướng ngại pháp là thân tâm vô lậu, như vậy trên thọ quán thọ để khắc phục
tham ưu tức là tu tập Định Vô Lậu câu hữu với Thọ Niệm Xứ.
3- Tâm Niệm Xứ
Lời Phật dạy: “Này các thầy
tỳ-kheo, ở đây tỳ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời.”
Quý vị nên lưu ý lời dạy này
“Trên tâm quán tâm” tức là dạy quý vị hằng ngày quan sát xem xét tư duy nội tâm
của quý vị nó đang khởi những niệm gì, đang nghĩ gì, đang lo sợ, đang phiền não
bất toại nguyện, đang giận hờn ganh ghét, đang nghĩ suy những âm mưu thâm độc
để hại người, đang tính toán những trò giải trí không lành mạnh, đang nghĩ
những chuyện tào lao không ích lợi, đang khởi những niệm tưởng không đâu để độ
người tu hành thiền định bằng những thần thông siêu việt, khiến cho mọi người
quá kính nể phục lăn sát đất, hoặc đang khởi những niệm làm thế này làm thế kia
để cúng dường Phật, Pháp, Tăng v.v…?
Tất cả những niệm khởi lên trong
tâm được quan sát và xem xét, cuối cùng phải được đẩy lui tất cả các niệm ra
khỏi tâm không còn một bóng dáng nào cả. Khi tâm chúng ta chưa ly dục ly ác
pháp thì tất cả những niệm được khởi lên trong tâm điều là niệm ác, đừng nghĩ
rằng chúng tôi khởi niệm làm ích lợi chúng sanh như: làm từ thiện, phóng sanh,
bố thí, giúp người bằng cách này hoặc bằng cách khác, trong khi tâm dục chưa
lìa, ác pháp chưa đoạn thì những hành động đó chưa phải là thiện, đó là hành
động làm danh làm lợi khéo léo cho cá nhân mình bằng những lý luận lừa đảo của
nó.
Theo Phật giáo, khi nào tâm thanh
tịnh tức là tâm đã ly dục ly ác pháp thì niệm khởi là niệm thiện, còn chúng ta
còn phàm phu thì niệm khởi là niệm ác. Tại sao vậy? Tại vì tâm còn danh và lợi,
cho nên tuy việc làm nhìn bên ngoài là thiện mà trong tâm là ác pháp. Việc làm
thiện đó chẳng có phước báo gì cả, người làm việc thiện này thường hay bị bệnh
tật khổ đau v.v…
Vì thế, người tu Định Vô Lậu câu
hữu Tâm Niệm Xứ luôn luôn quan sát tâm mình xem coi có niệm gì khởi ra thì mau
mau tìm mọi cách đẩy lui niệm đó khỏi tâm, hướng tâm trở lại vị trí thanh thản,
an lạc và vô sự của nó.
Tóm lại, người tu Định Vô Lậu câu
hữu Tâm Niệm Xứ, tức là trên tâm quán tâm. Khi tâm có niệm khởi thì phải đẩy
lui niệm khởi đó ra khỏi nội tâm thì chỗ này đức Phật dạy: “Nhiệt tâm, tỉnh
giác.” Phải luôn cảnh giác, rất tỉnh ở niệm vừa khởi khi thấy mặt nó ngay liền,
đồng thời mổ xẻ niệm này ra nên đức Phật gọi là quán tâm, tức là xem xét tư duy
cho thấu suốt niệm đó.
Pháp môn này khác với pháp môn
tri vọng, vì tri vọng là biết vọng liền buông, tức là không cần phải hiểu vọng
thuộc về loại nào trong lậu hoặc, cho nên pháp tri vọng là pháp ức chế tâm.
Còn pháp trên tâm quán tâm là
pháp xả tâm, vì những niệm có niệm là một chướng ngại pháp cho tâm thì nên quán
xét đẩy lui, còn có niệm không phải là chướng ngại pháp của tâm thì không cần
đẩy lui.
Thưa quý vị! Niệm không chướng
ngại tâm của quý vị đó là niệm thanh thản, niệm an lạc và niệm vô sự. Tại sao
chúng tôi lại bảo thanh thản, an lạc và vô sự là niệm?
Thưa quý vị! Nếu tâm không niệm
thì tâm không, nhưng ở đây nó biết rõ ràng là có tâm thanh thản, an lạc và vô
sự, vì thế mà chúng tôi bảo niệm thanh thản, niệm an lạc và niệm vô sự, quý vị
cứ suy ngẫm có đúng không? Niệm ấy có chướng ngại tâm không? Vì nó không chướng
ngại cho tâm nên chúng ta không đẩy lui nó.
4- Pháp Niệm Xứ
Bây giờ chúng ta tu tập tới Định
Vô Lậu câu hữu với Pháp Niệm Xứ. Đây là pháp thứ tư của Tứ Niệm Xứ, pháp này
coi vậy chứ không đơn giản, nếu chúng ta không biết rõ nó thì khó tu tập vô
cùng và chúng ta sẽ bị nhận ra tâm thanh tịnh sai lầm. Từ chỗ các pháp tác động
khiến tâm sanh ra niệm thiện ác, từ chỗ các pháp tác động tâm sanh ra các cảm
thọ cho thân và tâm khiến ra vô lượng vô biên chướng ngại pháp.
Vì chính các pháp mà tạo cho tâm
của chúng ta bất an, và nếu chúng ta không chủ động điều khiển được tâm thì tâm
sẽ sanh ra muôn ngàn ác pháp khác để tạo thành nghiệp lực. Nghiệp lực này sẽ
tiếp tục tái sanh luân hồi mãi mãi trong muôn kiếp, muôn đời của chúng ta.
Nghiệp lực này không phải một sanh ra một, mà một sanh mười, mười sanh trăm,
trăm sanh ra vạn, vạn sanh ra triệu, v.v…
Hằng ngày trong bốn oai nghi đi,
đứng, nằm, ngồi của chúng ta, chúng ta đều quan sát thân, thọ, tâm, pháp xem
coi có chướng ngại pháp hay không? Như trên đã dạy, nếu trên bốn chỗ này không
có chướng ngại pháp thì chúng ta xem tâm đang phóng dật ở chỗ nào?
Thường tâm không phóng dật là tâm
định trên thân, mà tâm định trên thân thì tâm luôn biết hơi thở ra hơi thở vô
một cách rất tự nhiên, chứ không bị ức chế hay bị bắt buộc phải tập trung trong
hơi thở ra vô như các loại thiền khác.
Đức Phật đã xác định khi nào tâm
không phóng dật là tâm định trên thân, tâm định trên thân tức là tâm định trên
hơi thở, tâm định trên hơi thở là tâm chỉ biết có hơi thở mà thôi. Nơi đây
chúng ta phải lưu ý, khi tâm không khởi niệm thì tâm hay phóng dật theo các
pháp bên ngoài.
Ví dụ: Khi tâm không có niệm thì tâm
thanh thản, an lạc và vô sự, nhưng tâm không định trên hơi thở (Thân Hành Niệm
nội) mà lại phóng tâm chạy theo các sắc pháp bên ngoài thân, như tâm cảm nhận
cỏ, cây, trời, mây, nước, núi, sông, v.v… nói chung là tâm đang phóng dật theo
tất cả các hình ảnh của sắc pháp. Người tu Thiền Đông Độ đến chỗ này họ cảm
thấy như tâm mình phủ trùm vạn hữu, cho nên Bàng Long Uẩn nói: “Dễ dễ dễ, ý Tổ
sư trên mỗi đầu ngọn cỏ.” Ngược lại đức Phật bảo chỗ này tâm còn phóng dật theo
các pháp nên chưa được định.
Người tu Định Vô Lậu câu hữu với
Pháp Niệm Xứ thì phải lưu ý điều này, nếu để tâm phóng ra ngoại cảnh lang thang
trời, trăng, mây, nước theo âm thanh sắc tướng bên ngoài như thiền sư Ba Tiêu
của Nhật Bổn theo âm thanh tiếng con nhái kêu hay tiếng con ếch nhảy, tiếng
nước kêu, đó là tâm đang phóng dật theo pháp chứ không phải tâm định.
Vì thế người tu thiền định của
đạo Phật phải cảnh giác điều này, khi mà tâm đi lang thang phóng dật như vậy
thì phải nhắc khéo cho tâm trở về hơi thở như đức Phật dạy: “Hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” nhưng không được ức chế nó mà phải để
nó tự nhiên định vào hơi thở. Chỗ này chúng ta chỉ cần biết là khi tâm đang
phóng dật theo pháp trần thì tâm định ngay liền trên hơi thở, bởi vì tâm không
còn khởi niệm nữa nên nó đã ly dục ly ác pháp nhưng chưa quen định trên hơi
thở. Chỗ này đức Phật đã dạy: “Thì Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
Tóm lại, Định Vô Lậu câu hữu với
Tứ Niệm Xứ là một pháp môn thiền định dễ tu nhất hơn tất cả các pháp môn khác
vì nó không ức chế tâm, không tập trung tâm vào một chỗ, nó luôn luôn quan sát
trong bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, nếu có chướng ngại pháp xâm chiếm vào bốn
chỗ này thì nó dùng tất cả mọi sự hiểu biết của các pháp ngăn ác, diệt ác pháp
và đẩy lui, khiến cho tâm ở trong trạng thái thanh tịnh an lạc giải thoát.
Nếu hằng ngày cứ giữ gìn pháp này
tu tập thì luôn luôn lúc nào cũng có sự giải thoát, kéo dài một phút sẽ giải
thoát một phút, một giờ sẽ giải thoát một giờ, một ngày sẽ giải thoát một ngày,
một tháng sẽ giải thoát một tháng.
Sự giải thoát ấy tức là tâm ly
dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là
tâm thiền định, cho nên thiền định mà không ức chế tâm, không tập trung tâm mà
lại có thiền định.
Tu chỉ có mục đích xả tâm tham,
sân, si mà lại có thiền định thì thật là tuyệt vời, thiền định lại làm chủ sự
sống chết và chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Cho nên trong kinh Nguyên Thủy
đức Phật thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chúng ta lưu ý pháp môn này:
“Này các thầy tỳ-kheo, đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh vượt khỏi sầu não, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.” (Kinh Niệm
Xứ -Satipatthanasutta- trong kinh Trung Bộ tập 1 trang 131 thuộc tạng kinh
Pali).
Hầu hết các nhà học giả không có
kinh nghiệm tu hành trong Tứ Niệm Xứ nên dựa theo sự dẫn giải của đức Phật
trong kinh mà không hiểu ý nghĩa của Phật muốn nói gì trong chín giai đoạn quán
thân trên thân như:
1. Quán niệm thân hành tướng nội
(hơi thở), tỉnh thức trong hơi thở.
2. Quán niệm thân hành tướng
ngoại như đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, co tay, duỗi tay, ngó tới, ngó lui,
mang bát, mặc y, v.v… đó là tỉnh thức trong hành tướng ngoại thân.
3. Quán niệm thân hành tướng
ngoại và tướng nội như: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, hơi thở, v.v… và tất cả
các cảm giác xảy ra toàn thể nội ngoại thân hành, tỉnh thức trong mọi hành động
thân nội, ngoại tướng sanh diệt.
4. Quán thân bất tịnh để phá ngã
chấp thân là của chúng ta.
5. Quán thân tứ đại duyên hợp để
phá chấp thân là vật thường hằng.
6. Quán thân tử thi chết trương
phồng hôi thúi để phá chấp thân là đẹp xinh thơm tho để nhàm chán sắc dục.
7. Quán thân tử thi bỏ trong
nghĩa địa bị các loài cầm thú xé ăn và loài côn trùng, dòi đục khoét để nhàm
chán thân xa lìa sắc dục
8. Quán bộ xương còn nối với
những sợi gân để nhàm chán các pháp thế gian chẳng có gì là bền chắc.
9. Quán bộ xương trắng để tránh
tâm sắc dục và nhàm chán các pháp thế gian.
Các nhà học giả dựa theo chín
pháp quán thân trên thân trong kinh Tứ Niệm Xứ mà hiểu theo kiến giải của mình
rồi dạy người tu tập đã biến pháp môn Tứ Niệm Xứ thành một pháp môn ức chế và
tập trung tâm quá căng thẳng, khiến cho mọi người tu tập thành bịnh các cơ mặt
và thần kinh.
Các nhà học giả đâu hiểu rằng Tứ
Niệm Xứ là bốn nơi để cho hành giả quan sát tư duy, suy ngẫm để đẩy lui tất cả
các chướng ngại pháp tức là những pháp làm cho tâm bất an, làm cho tâm khởi ham
muốn. Chín pháp quán thân trên thân thì có ba pháp tập tỉnh thức, còn sáu pháp
xả các chướng ngại pháp để tâm hoàn toàn sống trong chánh niệm.
Người tu Định Vô Lậu câu hữu Tứ
Niệm Xứ tức là quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp có chướng ngại pháp liền
tìm mọi cách đẩy lui để lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự như trên
đã dạy, đó là sự giải thoát. Còn nếu giải thích vòng vòng theo kinh Tứ Niệm Xứ
thì chỉ có người tu chứng mới hiểu được ý của đức Phật, còn người không tu
chứng sẽ lý giải sai pháp khiến cho người đời sau tu hành chẳng có giải thoát
mà còn rơi vào trạng thái có thể điên khùng, bệnh tật.
Hầu như các sư Nam Tông tưởng
giải ra tu tập cho nên ông nào cũng không nhập định được, chết một cách rất là
đau khổ, không có vị nào làm chủ sự sống chết được, đó là kinh sách Nguyên Thủy
mà các sư tu hành còn như vậy, huống là kinh sách phát triển của Đại Thừa, thầy
nào thầy nấy tu hành đến khi sắp chết đều nhe răng méo miệng khổ sở vô cùng,
thật đáng thương!
Đáng thương vô cùng, lúc còn mạnh
tay khỏe chân thì luận đông luận tây dạy người tu hành tưởng mình như là Phật
sống, không ngờ sự tu hành của mình chưa ngả về tới đâu mà vội mưa pháp vọng
ngữ để giết hằng loạt người ham tu thiền, ham tu có thần thông, cuối cùng thầy
trò dẫn nhau xuống địa ngục mà không biết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét